Trong lúc giao thời giữa năm cũ và năm mới, đó là lúc gợi ý để suy tưởng về bản chất của thời gian thực sự là gì. Thời gian trong cảm nhận thông thường của con người thì đã quá quen thuộc rồi nên không cần bàn nữa, nên bài này chỉ đề cập tới phần khó hiểu nhất của thời gian mà thôi.
Thời gian tâm lý
Thời gian dài hay ngắn dường như có tính chất chủ quan tùy thuộc tâm trạng của con người, khi vui thì thời gian qua rất nhanh đầy luyến tiếc. Còn khi phải chờ đợi thì thời gian dường như kéo dài rất lâu. Người xưa đã diễn tả tâm trạng này trong Kinh Thi đã có cách nay 3000 năm :
彼采葛兮,一日不見,如三月兮 Bỉ thái cát hề, nhất nhật bất kiến như tam thu hề
(Đằng ấy đi hái dây sắn à, một ngày không gặp như ba năm vậy !)
Chàng trai muốn tìm gặp người yêu để cùng nhau tình tự, nhưng nàng đã đi vô rừng hái dây sắn không biết đâu mà tìm, nên đành phải chờ đợi, nàng đi từ sáng tới chiều mới về, phải chờ một ngày như vậy chàng trai thấy lâu như ba năm, tâm trạng đó phát tiết thành bài Thái cát 采葛 thơ trong phần vương phong 王風 [Phong 風 là "Thập ngũ quốc phong", tức ca dao của 15 nước chư hầu hoặc khu vực, gồm Chu Nam 周南, Thiệu Nam 召南, Bội phong 邶風, Dung phong 鄘風, Vệ phong 衛風, Vương phong 王風, Trịnh phong 鄭風, Tề phong 齊風, Ngụy phong 魏風, Đường phong 唐風, Tần phong 秦風, Trần phong 陳風, Cối phong 檜風, Tào phong 曹風, Mân phong 豳風 (hoặc Bân phong), cộng 160 bài].
Thời gian vật lý
Chúng ta thường cho rằng thời gian tâm lý là chủ quan không đúng thực tế, chỉ có thời gian vật lý là khách quan, đối với bất cứ ai cũng như nhau. Bằng chứng hiển nhiên là con người dùng đồng hồ và lịch làm công cụ đếm thời gian. Các nhà vật lý tìm cách xác định thời gian một cách chính xác. Đơn vị để đo thời gian nhỏ nhất và thông dụng nhất là giây (second), nhưng người ta vẫn còn tiếp tục chia nhỏ một giây thành 100 đơn vị gọi là centisecond (1 phần trăm giây) để xác định những sự kiện diễn ra thật nhanh, ví dụ trong thi đấu thể thao chẳng hạn. Kỷ lục thế giới chạy 100 m nam hiện nay do Usain Bolt, người Jamaica nắm giữ, lập tại giải Vô địch điền kinh thế giới Berlin 2009 với thành tích 9 giây và 58 phần trăm giây. Các nhà vật lý còn sử dụng những đơn vị thời gian cực nhỏ hơn nữa như : millisecond (1 phần nghìn giây) microsecond (1 phần triệu giây), nanosecond (1 phần tỷ giây), picosecond (1 phần nghìn tỷ giây). Thời gian sớm nhất của vũ trụ là 10-43 giây sát bức tường Planck.
Trước kia, người ta định nghĩa một giây là 1/86400 của một ngày đêm. Một ngày đêm là thời gian trái đất xoay đúng một vòng tức 24 tiếng đồng hồ. Nhưng ngày nay người ta định nghĩa chính xác hơn như sau :
The second is the duration of 9 192 631 770 periods of the radiation corresponding to the transition between the two hyperfine levels of the ground state of the cesium 133 atom.
(Giây là thời gian của 9 192 631 770 chu kỳ của bức xạ điện từ, tương ứng với sự chuyển tiếp giữa hai mức siêu tinh tế của trạng thái cơ bản của nguyên tử cesium 133).
Các bội số của giây là phút, giờ, ngày, tháng, năm thì chúng ta đã quen thuộc.
Thời gian vật lý có vẻ chính xác, khách quan như vậy, nhưng liệu có phải hoàn toàn có thật hay không, đó là điều chúng ta sẽ nghiên cứu tiếp theo đây.
NHỮNG NGHI VẤN VỀ THỜI GIAN
Các nghi vấn về thời gian xuất hiện từ xa xưa, nhiều nhất trong lĩnh vực tâm linh, tôn giáo, cả trong triều đình.
Thứ nhất : Dự đoán của quan thái sử Tô Do đời Chu
Sách lịch sử đời Chu có chép :
Chu Chiêu Vương (trị vì từ 1052-1002) năm thứ 26 (năm 1027 trước công nguyên) ngày mồng 8 tháng 4 năm Giáp Dần, mặt trời có vầng sáng bao quanh, mây lành ngũ sắc vây quanh sao Thái Vi, tỏa sáng khắp bốn phương, mặt đất rung động, ao giếng đầy nước. Quan thái sử Tô Do bèn bói một quẻ, được quẻ Càn乾cửu ngũ (Kinh Dịch giải : Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân. 九五。飛龍 在天,利見大人rồng bay trên trời, được lợi gặp đại nhân. Thánh nhân tác nhi vạn vật đổ 聖人柞而萬物睹 thánh nhân ra đời vạn vật trông theo) bèn tâu với Chiêu Vương : “Bên phương tây có thánh nhân đản sinh, qua 1000 năm sau giáo pháp của ngài sẽ truyền đến đây”. Chiêu Vương cho người tạc vào bia đá và dựng bia trước đền thờ ở vùng ngoại thành phía nam kinh đô. (Sự tích ghi trong Chu Thư Dị Ký và Bạch Mã Tự Bi Ký). [Kinh đô thời Chu Chiêu Vương là Phong Ấp 豐邑 (nay ở phía tây nam Trường An tỉnh Thiểm Tây, bờ phía tây sông Phong 灃 tức là di chỉ Phong Cảo豐鎬遺址)]
Thực tế Đức Phật đản sinh vào khoảng năm 623 trước CN tức sau dự đoán của Tô Do khoảng 400 năm. Như vậy trước khi Phật ra đời 400 năm, triều đình nhà Chu ở Trung Quốc đã có dự đoán trước, có khắc bia đá để ghi nhận và có chép trong sách sử. Đến thời Hán Minh Đế (28-75), trong niên hiệu Vĩnh Bình, vào một đêm nọ, vua mộng thấy một điềm lạ kỳ. Trong giấc mộng, ông thấy một vị thân vàng, cao hơn một trượng sáu, lưng phóng ánh sáng mặt trời mặt trăng, bay trên không trung, đến trước cung điện. Hôm sau, Hán Minh Đế hội tất cả quần thần để bàn đoán mộng đó, xem coi có ý nghĩa gì. Thái sử Phó Nghị bốc chiêm tinh rồi tấu trình: “Dựa vào bia của Chu Chiêu Vương, giấc mộng đêm hôm qua của Bệ Hạ, nếu tính theo thời gian, thì hiển nhiên có sự liên quan mật thiết. Hiện tại, Thần lại nghe rằng ở Tây Vực có Đức Phật. Bệ Hạ mộng thấy người vàng, thì nhất định đó là Đức Phật vậy”. Nhà vua bèn sai một phái đoàn gồm 18 sứ giả, dẫn đầu là Đậu Cố, sang Tây Vực để tìm kiếm, trên đường đi, họ gặp hai nhà sư Thiên Trúc là Ca Diếp Ma Đằng (Kasyapa-Matanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa), bèn thỉnh về Lạc Dương, xây chùa Bạch Mã (năm 68CN) cho hai ông trụ trì. Lúc đó là khoảng 1000 năm kể từ lúc Tô Do đưa ra dự đoán. Như vậy dự đoán của Tô Do quả là chính xác.
Nghi vấn của chúng ta đưa ra là tại sao Tô Do có thể dự đoán chính xác như vậy ?
Thứ hai : Câu chuyện về pháp sư Huệ Trì.
Pháp sư Huệ Viễn (334-416) đời Đông Tấn là Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông, ông là đồng đạo với Đạo An, nhỏ hơn 20 tuổi. Em trai của ông, Huệ Trì (337…) cũng là một pháp sư rất nổi tiếng. Huệ Trì tính tình đạm bạc điềm tĩnh, có chí hướng cao xa. Lúc 14 tuổi bắt đầu đọc Thi Thư, học một biết mười, giỏi về văn sử, tinh thông Kinh, Luật, Luận của Phật giáo. Đạo An ở Tương Dương đề nghị Huệ Viễn đi về phía đông hoằng pháp. Huệ Trì cùng đi với anh. Đến Lư Sơn, hai anh em ở chung. Huệ Trì thân cao 8 xích , phong thái tuấn tú, thường mang giày cỏ, áo nạp phủ quá đầu gối. Số người theo học Phật pháp tại Lư Sơn có hơn 3000 người, không ai tuấn tú mẫn tiệp hơn Huệ Trì.
Sau Huệ Trì nghe nói ở Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên đất đai màu mỡ, nhân dân giàu có, muốn đến đó truyền pháp và xem phong cảnh núi Nga Mi. Năm Long An thứ ba đời Đông Tấn (công nguyên 399 CN), ông từ biệt Huệ Viễn đi Tứ Xuyên. Huệ Viễn khuyên em ở lại hết lời mà không được, bèn than rằng “Người đời đều thích đoàn tụ, riêng mình em thích phân ly, vì sao vậy ?” Ông đáp : “Nếu là người vướng mắc ở tình cảm, thích đoàn tụ thì không nên xuất gia. Hiện tại chúng ta đã cát ái xả dục mà cầu đạo thì nên kỳ vọng gặp nhau ở Tây phương cực lạc” Thế rồi anh em chia tay. Huệ Trì lên đường đi Tứ Xuyên một mình, từ đó không ai còn biết tung tích của ông. Kể từ lúc ông lên đường đi Tứ Xuyên vào năm 399 CN đến lúc người ta phát hiện ra ông trong bọng cây là năm 1113 CN, tức đã trải qua 714 năm. Câu chuyện như sau :
Bộ Sách Gia Thái Phổ Đăng Lục do Chính Thọ (Vân Môn tông) viết vào đời Nam Tống, quyển 22 có ghi lại một câu chuyện sau : Năm Chính Hòa thứ ba đời Tống Huy Tông (công nguyên 1113), tại Gia Châu Tứ Xuyên (nay là huyện Lạc Sơn nơi có tượng Phật điêu khắc vào vách núi đá cao nhất thế giới) quan địa phương có biểu tâu lên triều đình : Có cây cổ thụ bị gió thổi gãy, bên trong có một lão tăng đang nhập định, râu tóc che phủ thân thể, móng tay dài bao quanh người. Hoàng đế giáng chỉ dùng cáng khiêng lão tăng đó đưa về kinh đô (thời đó là Biện Kinh, kinh đô của nhà Bắc Tống, nay là thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam). Do vị sư người Tây Thiên (Ấn Độ) là Tổng Trì Tam Tạng dùng chiếc khánh đồng đánh lên để làm cho lão tăng xuất định, mới biết đó là em trai của pháp sư Huệ Viễn ở Lư Sơn, tên là Huệ Trì, nhân đi du lãm núi Nga Mi, ngồi nhập định trong bọng cây. Hoàng đế ra lệnh cho họa sĩ vẽ hình của lão tăng, và tự mình làm ba bài kệ.
Bộ Gia Thái Phổ Đăng Lục in vào năm Gia Thái thứ hai đời Nam Tống (CN 1202) cách lúc xảy ra sự việc trên (CN1113) chỉ có 89 năm, sự việc còn có thể khảo cứu và đáng tin cậy. Mặt khác 5 Bộ sách (3) mà Bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên gom lại đều là Thiền sử, ghi chép những sự việc có thật, người thật, việc thật.
Bài kệ thứ nhất của Tống Huy Tông :
七百年來老古錐 Thất bách niên lai lão cổ trùy
定中消息許誰知? Định trung tiêu tức hứa thùy tri ?
爭如只履西歸去 Tranh như chích lý Tây quy khứ
生死何勞木作皮 Sinh tử hà vinh mộc tác bì
Dịch nghĩa : Lão tăng sống hơn bảy trăm năm, căn cơ bén nhọn như cái dùi. Lúc nhập định có lẽ không ai biết tin tức gì của ông. Có thể sánh với Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc giày về Tây Thiên. Sống chết có vinh hoa gì khi lấy gỗ làm da.
Bài kệ thứ hai :
藏山於澤亦藏身 Tàng sơn ư trạch diệc tàng thân
天下無藏道可親 Thiên hạ vô tàng đạo khả thân
寄語莊周休擬議 Ký ngữ Trang Chu hưu nghĩ nghị
樹中不是負趨人 Thụ trung bất thị phụ xu nhân
Dịch nghĩa : Giấu núi trong đầm cũng giấu thân. Nếu không giấu thiên hạ thì đạo có thể gần gũi . Gởi lời nhắn với Trang Chu hãy thôi suy nghĩ và nghị luận. Trong bọng cây không phải phụ lòng khách qua đường.
Bài kệ thứ ba :
有情身不是無情 Hữu tình thân bất thị vô tình
彼此人人定裏身 Bỉ thử nhân nhân định lý thân
會得菩提本無樹 Hội đắc bồ đề bổn vô thụ
不須辛苦問盧能 Bất tu tân khổ vấn Lư Năng
Dịch nghĩa : Là loài hữu tình thân không phải vô tình. Đây đó người người đều nhập định. Tự mình thể hội bồ đề vốn không có cây. Thì khỏi phải nhọc công hỏi pháp Huệ Năng.
Hoàng đế Tống Huy Tông phải xúc động lắm trước sự kiện này, nên mới làm liền một lúc ba bài kệ để phát biểu ý kiến của mình. Ta có thể diễn lại ý của Huy Tông bằng văn xuôi cho rõ ràng dễ hiểu như sau : “Lão tăng đời xưa nhập định 700 năm, phải là người thượng căn, có lẽ không ai còn biết tin tức gì về ông. Sự việc lạ lùng này có thể sánh với việc Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc giày đi về Tây Thiên, sau khi người ta đã chôn ông tại Trung Quốc. Sống chết có vinh hoa gì khi cuối cùng cũng vào hòm gỗ. Còn người giác ngộ như Đạt Ma hay Huệ Trì làm chủ sinh tử. Họ có thần thông có thể giấu được quả núi trong đầm như lời Trang Tử nói trong thiên Đại Tông Sư, bộ Nam Hoa Kinh, cũng giấu được thân. Nhưng nếu không giấu thiên hạ thì đạo có thể gần gũi hơn. Ta gởi lời nhắn với Trang Chu rằng ông hãy thôi suy nghĩ và bình luận đi, vì e rằng có những điều ông nghĩ chưa tới và làm chưa được. Con người là loài hữu tình thân thể cũng không phải vô tình, tuy nhiên nếu đây đó khắp mọi nơi, mọi người đều biết đem thân nhập định như Huệ Trì, giác ngộ bồ đề không phải là cây, như trong bài kệ của Huệ Năng, thì không cần phải nhọc công hỏi pháp nơi Lục Tổ, vì bản thân mọi người tự chứng ngộ.”
Nghi vấn nêu ra là tại sao Huệ Trì có thể sống hơn 700 năm, vượt xa tuổi thọ cao nhất của con người ? (Người sống lâu nhất được giới khoa học ghi nhận là Bà Antisa Khvichava, sinh ngày 08-07-1880, đã trải qua giai đoạn hưu trí dài đến 47 năm, đã qua đời tại Sachino, một ngôi làng hẻo lánh ở Georgia (Đông Âu), vào ngày 30-09-2012 theo tờ Independent. Nếu năm sinh chính xác, Khvichava chắc chắn là người thọ nhất từng sống trên trái đất là 132 tuổi).
Thứ ba : Lời dự đoán của Trí Dược Tam Tạng về chùa Bảo Lâm
Phật giáo Trung Hoa có ghi nhận một vị sư người Ấn Độ, Ngài Trí Dược Tam Tạng 智药三藏 đã đến Quảng Châu Trung Quốc bằng đường biển vào năm 502 đời Nam Bắc Triều (Quảng Châu thuộc Nam Triều 420-589), ban đầu ông đến chùa Pháp Tánh 法性寺 [chùa này do một vị tăng Ấn Độ khác là Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra) đến Quảng Châu năm 435, xây dựng trong thời Lưu Tống] trên đường đến Ngũ Đài Sơn, ông đi qua suối Tào Khê, thấy nước suối rất trong lành, ngon ngọt, phong cảnh giống núi Bảo Lâm bên Thiên Trúc, ông bảo đệ tử rằng “170 năm sau khi tôi tịch diệt sẽ có một vị thánh tăng đến đây hoằng pháp, khai ngộ cho rất nhiều người”, thế nên ông đã đề nghị quan Thiều Châu Mục là Hầu Kính Trung xây dựng chùa. Hầu Kính Trung tâu lên Lương Võ Đế và được sắc chỉ cho phép xây dựng, năm 504 hoàn thành, Lương Võ Đế theo lời tâu, đặt tên chùa là Bảo Lâm Tự 宝林寺 (nay là chùa Nam Hoa cách Thiều Quan 25 km về phía đông nam, tên Nam Hoa Thiền Tự 南华禅寺 do Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận 赵匡胤 đặt sau khi đã trùng tu vào năm Khai Bảo nguyên niên 968). Về sau quả đúng như vậy, sư Huệ Năng (638-713), Tổ thứ sáu của Thiền Tông Trung Quốc, vào năm Nghi Phụng nguyên niên-676, đời Đường Cao Tông, đã đến chùa Pháp Tánh (nay là chùa Quang Hiếu 光孝 )gặp hai ông tăng tranh luận không dứt về việc gió động hay phướn động, ngài nói rằng “chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm của các ông tự động”, năm sau 677, Huệ Năng đến chùa Bảo Lâm trụ trì, đại hoằng dương Thiền tông trong 37 năm, ông và các đệ tử về sau đã khai ngộ cho hơn 5000 người kiến tánh. Khi Huệ Năng viên tịch, đã để lại thân xác bất hoại của mình để làm tin cho đời sau, trải qua 1300 năm, đến nay nhục thân đó vẫn còn gần như nguyên vẹn, chỉ bị hư hỏng chút ít do sự phá hoại của con người, hiện nay được thờ tại chùa Nam Hoa, 25 km về phía đông nam thành phố Thiều Quan 韶关, cách Mã Đôi trấn 马坝镇 4km về phía nam, bên bờ suối Tào Khê 曹溪, . Thiều Quan (Shaoguan) cách Quảng Châu (Guangzhou) 220 km về phía bắc.
Thứ tư : Thách thức của bà lão bán bánh đối với thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám
Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám (德山宣鑒782-865) sống vào đời Đường ở Trung Quốc, đã gặp một thách thức về thời gian như sau :
Sư họ Chu, quê ở Kiếm Nam, Giản Châu đời Đường (唐代劍南道简州人), xuất gia lúc 20 tuổi. Sư thông Luật tạng và các bộ kinh, luận. Vì thường giảng Kinh Kim Cang nên người đời gọi sư là Chu Kim Cang. Nghe Nam phương Thiền tông thịnh hành, sư bất bình nói: “Kẻ xuất gia muôn kiếp học uy nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật mà còn chưa thấy gì. Bọn ma con ở phương nam dám nói ‘Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.’ Ta phải ruồng tận hang ổ của chúng, diệt hết nhóm ma quái để đền ân Phật.”
Sư bèn khăn gói lên đường, mang theo bộ Thanh Long sớ sao tới Lễ Châu. Trên đường, sư gặp một bà già bán bánh rán, bảo bà lấy ít bánh ăn điểm tâm. Bà chỉ cái gánh của sư hỏi:
“Gói này là gì.”
Sư trả lời: “Thanh Long sớ sao.”
Bà nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Bằng đáp không được, mời thầy đi nơi khác.”
Sư đồng ý, bà liền hỏi: “Trong kinh Kim Cang có nói ‘Tâm quá khứ bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc.’ Vậy thầy muốn điểm tâm nào?”
Sư bối rối rồi lặng thinh, không đáp được. Bà già liền chỉ sư đến tham vấn thiền sư Long Đàm Sùng Tín. Vừa tới cửa Long Đàm, Sư liền nói:
“Nghe danh Long Đàm đã lâu, nay đến đây, đầm (đàm 潭) cũng chẳng thấy, rồng (long 龍) cũng chẳng hiện.”
Long Đàm bước ra, nói: “Ngươi đã tới Long Đàm rồi.”
Sư không đáp được, bèn dừng lại đây. Một đêm, Sư đứng hầu. Long Đàm bảo:
“Đêm khuya sao chẳng xuống?”
Sư kính chào bước ra, lại trở vào thưa: “Bên ngoài tối đen.” Long Đàm thắp đèn đưa sư. Sư toan tiếp lấy, Long Đàm liền thổi tắt. Sư bỗng nhiên đại ngộ, tất cả kiến chấp đều tan vỡ, quì xuống lễ bái. Long Đàm hỏi:
“Ngươi thấy gì?”
Sư thưa: “Từ nay về sau chẳng còn nghi lời nói chư hoà thượng trong thiên hạ.”
Hôm sau Long Đàm thượng đường bảo chúng: “Trong chúng đây có một gã răng như kiếm bén, miệng như chậu máu, đánh một gậy chẳng ngó lại, khi khác anh ta lại lên ngọn núi cao vút dựng lập đạo tràng của ta.”
Sư đem bộ sớ sao ra chất đống, nổi lửa đốt và nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền như một sợi lông ném trong hư không; hết sạch các trọng yếu trong đời như một giọt nước rơi vào hồ lớn.” Sau đó sư lễ bái tạ từ Long Đàm rồi đi du phương.
Về sau sư đã giúp cho 9 môn đệ được kiến tánh, trong đó có Nham Đầu Toàn Hoát 巖頭全豁và Tuyết Phong Nghĩa Tồn 雪峰義存là những người nổi tiếng.
Nghi vấn trong câu chuyện này là quá khứ, hiện tại, tương lai đều không có thật.
Thứ năm : Những câu chuyện kỳ lạ về hai hành khách của tàu Titanic
Ngày 14/04/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người chết và mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.
|
Nơi tàu Titanic chìm năm 1912 |
Ngày 24/09/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập. Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: “Tôi tên là Winnnie Coutts, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp”. Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm.
Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi. Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: chẳng lẽ Coutts từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Coutts đang nói.
Vấn đề còn đang tranh cãi chưa ngã ngũ thì một năm sau lại xảy ra sự kiện thứ hai :
Ngày 09/08/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía tây nam cách một núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Lúc đó người đàn ông này đang ngồi bình thản bên rìa nước. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc và rút điếu thứ hai, mắt nhìn về phía biển khơi, mặt lộ vẻ dạn dày sương gió. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.
Nhà hải dương học nổi tiếng, tiến sĩ Marwen Iderlan, sau khi cứu được Smith đã phát biểu trước báo chí rằng không thể có sự việc nào đáng kinh ngạc hơn. Người đàn ông này không thể là tên lừa đảo, ông ta đích thực là thuyền trưởng của con tàu Titanic, người cuối cùng cùng với con tàu chìm xuống biển. Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/04/1912 tức chỉ mới một ngày sau khi tàu Titanic chìm.
Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/09/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.
Sự việc cần được giải thích rõ ràng. Một số cơ quan hải dương Âu – Mỹ cho rằng thuyền trưởng Smith và hành khách Coutts đã bị rơi vào “hiện tượng mất tích – tái hiện xuyên thời gian”. Theo đó, một số chuyên gia phán đoán có khả năng trên biển vẫn còn một số hành khách Titanic sống sót đang chờ được cứu giúp, vì trong lịch sử cũng đã có không ít trường hợp mất tích – tái hiện một cách thần bí.
Nghi vấn này cho thấy có hai người từng đi trên tàu Titanic bị chìm năm 1912 nhưng không bị già đi, chứng tỏ thời gian không có thật.
Thứ sáu : Bạch tuộc Paul dự đoán chính xác cả 8 trận đấu tại World Cup Nam Phi 2010
Thời hiện đại cũng có bằng chứng. Trong thời gian diễn ra Giải Bóng đá Vô địch Thế giới (World Cup) 2010 tại Nam Phi. Chú bạch tuộc Paul đã làm cả thế giới kinh ngạc khi đã dự đoán trước, chính xác 100% kết quả của cả 8 trận đấu, trong đó 7 trận có đội tuyển Đức thi đấu, và trận cuối cùng là trận chung kết giữa hai đội tuyển Hà Lan và Tây Ban Nha. Paul đã dự đoán Tây Ban Nha thắng và kết quả diễn ra đúng như vậy, Tây Ban Nha đã đoạt cúp vô địch.
Bạch tuộc Paul đã chọn Tây Ban Nha là đội chiến thắng, cuộc chọn lựa diễn ra vào ngày 9-7-2010, hai ngày trước khi trận chung kết Hà Lan -Tây Ban Nha diễn ra vào ngày 11-7-2010 với kết quả 1-0 nghiêng về đội Tây Ban Nha.
Xác suất để dự đoán đúng 1 trận đấu là 0.5 hay 1/2, xác suất dự đoán chính xác cả 8 trận đấu là 2-8 bằng 0.00390625 hay 1/256. Một tỉ số rất nhỏ, rất khó xảy ra nhưng thực tế là điều đó đã xảy ra.
Bạch tuộc Paul là một linh vật có khả năng thấy được tương lai chứ không phải ngẫu nhiên mà đoán đúng được kết quả của cả 8 trận đấu.
Nghi vấn là kết quả dự đoán của bạch tuộc Paul là ngẫu nhiên hay có điều gì bí ẩn đàng sau sự kiện.
LÝ GIẢI VỀ BẢN CHẤT THỰC SỰ CỦA THỜI GIAN
Qua các nghi vấn nêu trên, chúng ta có thể nêu ra vài nhận định như sau :
Thời gian có tính chất kỳ bí, có những trường hợp dường như thời gian ngừng lại, như đối với pháp sư Huệ Trì, thuyền trưởng Smith và nữ hành khách Winnie Coutts của tàu Titanic. Còn đối với thái sư Tô Do đời Chu Chiêu Vương, dường như ông ta thấy tương lai của 400 năm sau, đối với thiền sư Trí Dược Tam Tạng, ông ta thấy tương lai của 170 năm sau, và đối với bạch tuộc Paul, nó thấy trước kết quả các trận đấu mặc dù đối với mọi người khác trên địa cầu, các trận đấu chưa diễn ra. Còn đối với bà già bán bánh gặp sư Đức Sơn Tuyên Giám, bà ấy là người giác ngộ, biết bản chất của thời gian như thế nào, đưa ra câu hỏi để trắc nghiệm sư Đức Sơn. Ông sư này chưa ngộ quá khứ, hiện tại, tương lai, chỉ là cái thấy chủ quan, ảo tưởng chứ không phải thật, nên không trả lời được.
Theo nguyên lý bất định do Heisenberg tìm thấy năm 1927, vị trí của hạt elctron là không thể xác định, người ta chỉ phỏng đoán nó bằng xác suất chứ không thực sự biết nó ở đâu. Nhưng electron lại chính là cái mà ngũ giác quan của chúng ta tiếp xúc, cảm nhận, thấy các sự vật rất ổn định như cái bàn, cái ghế, các thứ vật dụng, nhà cửa xe cộ, đều rất ổn định. Sự ổn định này là do tác dụng của hạt nhân nguyên tử. Chỉ cần có sự biến đổi chút ít trong cơ cấu phân tử của vật thì chúng ta cảm thấy vật đã đổi khác rất lớn. Ví dụ hydro H2 và oxigen O2 đều là những chất khí, nhưng khi kết hợp hai nguyên tử H2 và một nguyên tử O thành H2O thì chúng ta thấy đó là nước, khác rất xa chất khí. Cái mà các giác quan của chúng ta tiếp xúc thì cũng chỉ là electron mà thôi nhưng cảm nhận về tính ổn định của vật thì lại là nước do cấu trúc phân tử đã thay đổi.
Hạt photon thì có thể xuất hiện đồng thời ở rất nhiều vị trí khác nhau và các vị trí này liên kết dính líu với nhau tức thời, bất kể khoảng cách giữa chúng là bao xa. Đó là tính bất định xứ (nonlocality) của hạt. Điều này thực sự đã làm cho Einstein rất bối rối. Ông gọi đó là tác động ma quái từ xa (Spooky action at a distance). Các đặc trưng của hạt photon cũng như của các hạt sơ cấp khác như khối lượng nghỉ, số spin (chuyển động tự quay của hạt), điện tích v.v…không hề có thật. Tại sao ? vì chúng không bao giờ đứng yên nên không thể có khối lượng nghỉ, nhưng người ta vẫn giả định cho rằng phải có và nghĩ ra nhiều phương trình phức tạp để tính toán nó. Các đặc tính khác như spin, điện tích… không hề có sẵn trước khi người ta đo đạc nó, nhưng người ta vẫn đo và vẫn thấy là có. Vì các đặc tính là không có sẵn mà chỉ do người đo gán ghép vào, nên tính hiện thực (realism) là không thực có, vị trí xác định của chúng cũng không có, chỉ là phỏng đoán bằng xác suất mà thôi. Tóm lại, đối với các hạt cơ bản, gọi chung là lượng tử, chúng có những tính chất kỳ dị mà con người không thể hiểu nổi, đó là các đặc tính : phi hiện thực (unrealism), bất định xứ (nonlocality) và phi số lượng (nonquantity). Những tính chất này thể hiện rõ ràng trong hiện tượng vướng víu lượng tử (quantum entanglement).
Nhóm các khoa học gia chống lại nhận thức “phi lý”, này gồm có Einstein, Podolsky và Rosen, đã cùng nhau đưa ra giả thuyết mà sau này người ta gọi tắt là nghịch lý EPR (EPR paradox) vào năm 1935. Giả thuyết của họ cho đến năm 1982 đã bị Alain Aspect và nhiều nhà khoa học về sau nữa với đầy đủ máy móc tối tân, chính xác hơn, chứng minh là sai. Và những điều mà họ gọi là nghịch lý lại là thực tế có thật, mà ngày nay các khoa học gia đều thừa nhận vật lý lượng tử mới đích thực là cơ sở chính xác của vật lý học. Các nhà vật lý vĩ đại như Einstein và Feynman đều có phần bảo thủ nên có sai lầm.
Chính vì các hạt cơ bản cấu tạo ra vật chất có những đặc tính kỳ lạ “phi lý” như vậy nên một số nhà vật lý hàng đầu đã có nhận thức rõ ràng. Amit Goswami, Eugene Wigner, Von Neumann, nói rằng chính tâm thức tạo ra vật chất. David Bohm nói vũ trụ là ảo. Craig Hogan nói vũ trụ là số (digital). Điều này là tương đồng với nhận thức của Phật giáo nói rằng “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Các pháp đều không có tự tánh. Các đặc tính của sự vật đều do tập quán của chúng sinh cho là như vậy, chứ chẳng có gì là thật cả. Tất cả chỉ là thế lưu bố tưởng.
Triết gia Zénon thời cổ Hy Lạp nói rằng khi ta bắn một mũi tên, nó không thực sự di chuyển và không bao giờ đi đến đích. Ông dùng toán học để chứng minh cho lập luận của mình. Nhưng không ai tin, tất cả mọi người đều thấy rằng mũi tên thực tế là có đi đến đích, do đó đều cho rằng Zénon ngụy biện. Chỉ khi người ta thấy thực nghiệm của Hầu Hi Quý mới thấy hé lộ chút ít manh mối, mới hiểu rằng mũi tên đi đến đích chỉ là một thói quen nhận thức chứ không phải là một chân lý tất yếu.
Sau khi luận giải về tính chất không thật của không gian và vật chất thì dễ dàng kết luận là thời gian cũng giống như vậy, thời gian cũng chỉ là ảo, là thói quen cảm nhận như vậy chứ không phải thật, bất luận đó là thời gian tâm lý hay thời gian vật lý. Thời gian cũng chỉ là sản phẩm của tâm thức.
Khi thiền sư Huệ Trì nhập định sâu, tâm thức dừng lại thì thời gian cũng dừng lại. Lúc đầu tâm thức còn hoạt động nên râu tóc mọc dài che thân, móng tay, móng chân của ông còn mọc dài ra, quấn quanh mình, 鬚髮被體,指爪遶身(tu phát bị thể, chỉ trảo nhiễu thân) nhưng khi tâm thức ngưng bặt thì chúng không mọc nữa, cơ thể cũng không cần tiếp thêm năng lượng, cứ thế mà trải qua hơn 700 năm.
Trường hợp của thuyền trưởng Smith và cô Winnie Coutts, có lẽ họ lạc vào một cõi giới khác như cõi trời Đao Lợi chẳng hạn, ở trên đó thời gian trôi rất chậm, một ngày trên đó bằng 80 năm dưới trần gian, vì vậy họ không già thêm bao nhiêu.
Nguyên lý bất định của Heisenberg không cho phép suy đoán chính xác tương lai, vì đường biểu diễn tương lai đi theo hướng bất định, giống như con xúc xắc, không thể đoán chắc được. Như vậy chắc chắn là Tô Do, Trí Dược Tam Tạng và bạch tuộc Paul không hề suy đoán, mà họ nhìn thấy tương lai bằng một giác quan đặc biệt gọi là huệ nhãn. Có những kỳ nhân như Hầu Hi Quý, ông ta có thể nhìn thấy quá khứ của những người chưa từng gặp. Tương lai cũng không phải là chưa xảy ra, bà già bán bánh gặp sư Đức Sơn biết rõ điều đó, sự phân biệt quá khứ, hiện tại, vị lai, đều là chủ quan. Việc khó hiểu là tại sao tương lai là điều chưa xảy ra mà lại có thể thấy được. Chẳng hạn lúc người ta cho bạch tuộc Paul tiên đoán về trận đấu chung kết giữa Tây Ban Nha và Hà Lan , đó là ngày 9-7-2010, hai ngày trước trận đấu, thì làm sao nó có thể thấy kết quả của trận đấu ? Câu trả lời là trên địa cầu chưa diễn ra trận đấu đó, 7 tỉ người trên địa cầu chưa thấy trận đấu đó, nhưng không phải trận đấu đó chưa từng diễn ra trong Tam giới. Trận đấu đó đã diễn ra rồi trong một vũ trụ song song nào đó, kết quả đã có rồi, chỉ nhờ một giác quan đặc biệt như huệ nhãn chẳng hạn, nhìn thấy thế giới đó và chỉ cần đọc lại kết quả mà thôi. Giống như một cuốn phim, người trong phim thì không thể biết tương lại thế nào vì sự kiện chưa xảy ra, nhưng người ngoài phim, đã xem rồi, thì biết rõ tương lai ra sao, thấy rõ mọi diễn tiến của câu chuyện.
Theo Phật pháp thì vũ trụ chỉ là ảo ảnh, cuộc sống đời thường của chúng ta chỉ là thế lưu bố tưởng, nó cứ lặp đi lặp lại trong một vòng tròn không có lối thoát gọi là luân hồi, sự luân hồi của mỗi chúng sinh là do nghiệp của chúng sinh đó chi phối.
Không gian, thời gian, số lượng vật chất đều chỉ là ảo, không phải thật. Sự phân chia ba thời, quá khứ, hiện tại, tương lai, chỉ là thói quen của tâm thức, không phải chân lý. Tất cả mọi dữ liệu đều chứa trong một tàng thức vô cùng rộng lớn gọi là A-lại-da thức (Alaya). Tàng thức đó phải bị hạn chế, che khuất bớt một phần mới có điều kiện cho ảo hóa phát sinh. Ảo hóa cuối cùng tạo ra cuộc sống đời thường của chúng ta, có không gian, thời gian và số lượng vật chất. Sự che khuất, sự hạn chế, vô minh, là nguyên lý của ảo hóa, cũng là nguyên lý của cuộc sống, từ đó mới có sinh diệt, quá khứ, hiện tại, tương lai. Như vậy vô minh tất yếu phải trở thành điều kiện bắt buộc của cuộc sống. Không có vô minh thì không có sinh diệt, không có đời sống. Do đó bậc thánh trí giác ngộ cũng phải vận dụng vô minh, có thế lưu bố tưởng, thì mới tiếp cận được với chúng sinh, chỉ không sinh chấp trước tưởng mà thôi.
Tóm lại, không gian, thời gian, số lượng vật chất, đều chỉ là ảo hóa.
(Truyền Bình)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét