Bằng con mắt tuệ giác, Đức Phật nhìn thấy vũ trụ vạn hữu đã nắm tay nhau mà ra đời, sanh tồn và hoại diệt, kể cả con người. Nhất tức nhất thiết. Một là tất cả, tất cả là một, bởi cái này sanh nên cái kia sanh, cái này diệt nên cái kia diệt. Điều này được gọi là nguyên lý Duyên khởi. Đó là quy luật vận hành và trật tự của thế giới muôn loài. Ngoài ra không có một bóng dáng nào của tự ngã, tự sanh hay đấng tạo hóa.
Duyên khởi tự thân nó đã nói lên sự vận hành tương tục không gián đoạn của mọi sự hữu. Tương tục với một tốc độ mà đơn vị bằng vận tốc của ánh sáng cũng không thể diễn tả đúng nghĩa nên Phật giáo phải dùng đến từ “tương tức”: cái này tức cái kia, vì sự thay đổi, biến hóa trong lòng mọi sự hữu diễn ra trong từng sát na.
Trong guồng máy vận hành Duyên khởi ấy, mạng sống của đời người chỉ giới hạn trong một hơi thở. Vì vậy Đức Phật từ chối đề cập đến những vấn đề không thiết thực với cuộc sống, mà tập trung vào những nguyên tắc đạo đức, hướng đến xây dựng một đời sống có ý nghĩa trọn vẹn an lạc giải thoát. Đức Phật từ chối trả lời những câu hỏi mang tính chất siêu hình, hay những vấn đề mà ta cứ ngỡ như là trọng đại của một kiếp người, chẳng hạn: “Ta có mặt trong quá khứ hay không có mặt trong quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào, hình vóc ra sao? Trước kia ta là gì và ta có mặt như thế nào trong thời quá khứ”? Hoặc “Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào, hình vóc ra sao? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai”? Rồi “Ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu”?
Làm sao có một cái “ta” từ đâu đến và sẽ đi về đâu được khi mọi sự mọi vật đều nương vào nhau mà sanh thành và hoại diệt? Cho nên, nếu có thể trả lời, thì câu trả lời chỉ là: Ta từ duyên khởi đến và sẽ đi về cũng trong nguyên lý ấy. Bởi con người, theo Phật giáo, là con người duyên khởi. Đức Phật từ chối quan niệm con người được sanh ra từ đấng tạo hóa và gạt bỏ tín ngưỡng về ngã của đạo Bà La Môn thờ thiên chủ Brahman. Ngài chấp nhận và tin tưởng về sự tái sanh và luân hồi trên nền tảng Duyên khởi. Tuy nhiên, khi đã biết được rằng: “Cái này không có nên cái kia không có, cái này diệt nên cái kia diệt”, thì không ai chạy theo quá khứ, vị lai hay hiện tại để rồi hỏi rằng: “Ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu”! Đọc Đại kinh Đoạn Tận Ái (Mahatanha, Sankhaya Suttam), số 38, Trung Bộ kinh, sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn về điều đó.
Đức Phật khẳng định, sự hình thành con người phải có đầy đủ ba yếu tố căn bản và tập hợp nhiều điều kiện nhân duyên khác: “Này các Tỳ kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai (một đời sống mới bắt đầu) thành hình: người mẹ trong thời kỳ có thể thụ thai, cha mẹ có giao hợp, và có sự hiện diện của Gandhabha”.
Như vậy, theo Đức Phật, một đời sống mới được hình thành phải hội đủ ba yếu tố, hay nói cách khác là phải hội đủ ít nhất ba điều kiện nhân duyên, thiếu một trong ba yếu tố đó thì bào thai không thể hình thành. Trước hết, người mẹ phải ở trong thời kỳ có thể thụ thai, tức là lúc người đàn bà đang trong thời kỳ rụng trứng, đồng thời các chất nội tiết sanh dục của người nữ, gồm hai hormon chính là estrogen và progesteron làm niêm dạ con dày lên, có nhiều nếp và ngấm nước với các muối dưới hình thức điện giải hay ion để sửa soạn nhận, giữ và nuôi dưỡng cái trứng nếu có sự thụ tinh. Yếu tố thứ hai là có sự giao hợp của cha mẹ, để tinh khí của người nam, mang nhiều tế bào sanh dục đực đã trưởng thành và lành mạnh, có thể tham gia phối phợp với noãn bào. Và yếu tố thứ ba là gandhabba.
Nhưng các loài hữu tình nói chung, con người nói riêng, không thể tồn tại hay sẽ sanh được, dù đã có đủ ba yếu tố trên, nếu không có bốn loại thức ăn phù trợ. Đức Phật nói: “Này các Tỳ kheo, có bốn món ăn giúp cho an trú các loài hữu tình đã sanh hay phò trợ các loài hữu tình sẽ sanh. Thế nào là bốn? Đoàn thực hoặc thô hoặc tế, thứ hai là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực, và thứ tư là thức thực”. Bốn loại thức ăn như vậy là bao gồm cả vật chất lẫn tinh thần, những điều kiện nhân duyên cho các loài hữu tình nói chung hiện hữu và tái sanh. “Bốn món ăn này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Bốn món ăn này lấy ái làm nhân duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm sanh chủng, lấy ái làm nguyên nhân”.
Ở đây, cái được Đức Phật nói đến như là nguyên nhân đầu tiên cho sự vận hành của mười hai nhân duyên, nhưng như đã nói, trong Phật giáo không có khái niệm nguyên nhân đầu tiên, mà mười hai nhân duyên có tính chất tương tức với nhau, “cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt”. Như vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não cùng sanh khởi. Nhưng, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu nhập diệt, sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này”.
Đến đây, chúng ta đã có thể đặt vấn đề Gandhabba là gì? Đức Phật nói rằng, dù người phụ nữ ở trong thời kỳ có thể thụ thai và có quan hệ với người nam, nhưng không có gandhabba thì bào thai không thể hình thành. Về hai yếu tố trước thì khoa học đã làm sáng tỏ. Riêng yếu tố thứ ba, gandhabba là gì thì không ai biết, vì Đức Phật không giải thích. Gandhabba có tính chất siêu hình, chúng ta không có cách gì để kiểm chứng nó có tồn tại hay không tồn tại. Nhưng có một điều mà chúng ta biết chắc là, dù không kiểm chứng được, vẫn có vô số mọi sự hữu đang tồn tại quanh ta. Khoa học đang cố gắng chứng minh khả năng của họ có thể tạo ra con người bằng kỹ thuật productive cloning. Và nếu thành công, phải chăng nó đã chứng minh yếu tố thứ ba mà Đức Phật nói nó phải có trong quá trình hình thành bào thai là không tồn tại? Câu trả lời là không phải không tồn tại mà nó sẽ mang một cái tên khác, tên đó có thể là productive cloning. Bởi con người, như đã nói, là con người duyên khởi, hễ có đủ các điều kiện nhân duyên của một con người, thì con người hiện hữu. Trong các điều kiện nhân duyên ấy, có thể có yếu tố kỹ thuật productive cloning.
Dù sao thì Duyên khởi vẫn là chân lý, vì áp dụng trong mọi hoàn cảnh đều thấy đúng. Đọc kỹ Đại kinh Đoạn Tận Ái, chúng ta càng tin hơn nữa tính chính xác và khoa học của nó trong quá trình hình thành bào thai, và đoan chắc rằng Gandhabba là một yếu tố có thực. Đó có thể là sự tương tục của tâm thức, và tâm thức này chắc chắn mang tính chất luyến ái, tham dục, một chi phần trong mười hai nhân duyên. Mà nếu một chi phần của mười hai nhân duyên có mặt thì đồng thời những chi phần khác cũng có mặt, hay toàn bộ sự sống của chúng sanh vận hành theo chiều hướng khổ đau. Rõ ràng giữa hai người khác phái, dù là vợ chồng đi nữa, mà không có sự hiện diện của một cái tâm tham muốn, luyến ái – bản chất của vô minh – thì không thể có quan hệ giao hợp. Cho nên, trò chơi sanh tử được bắt đầu bằng sự tham muốn luyến ái, được thúc đẩy bởi dục vọng. Dục vọng đó có thể được biểu hiện dưới hình thức luyến ái vợ chồng, hoặc diễn ra trong phòng thí nghiệm với nhà khoa học.
Vì vậy, nói rằng một đời sống mới được hình thành phải có ba yếu tố là tinh cha, huyết mẹ và gandhabba, thực chất là sự tập khởi và vận hành của mười hai nhân duyên. Trong đó, gandhabba được hiểu như là sự tương tục của thức, và thức này mang nặng tính chất ái nhiễm, khát ái, động lực thúc đẩy cho trò chơi sanh tử vận hành. Thật vậy, kinh Đại Bảo Tích, pháp hội thứ 14, Phật thuyết nhập thai tạng, nói: “Do tinh cha huyết mẹ hòa hợp làm chỗ sở duyên của thức nương ở nơi đó”.
Tóm lại, sự hình thành con người trong Phật giáo, là do nhân duyên. Tính Duyên khởi đối với tình thế gian hay nơi con người là sự hiện hữu của mười hai nhân duyên, theo chiều hướng sanh khởi, vô minh duyên hành… Mười hai yếu tố này làm nhân làm duyên cho nhau, sanh khởi liên tục trong vòng nhân quả, khiến con người bị chìm đắm trong sanh tử luân hồi. Và nhân quả của mười hai nhân duyên này cứ sanh khởi khắp cả ba thời gian, tạo thành cả một dòng sông sanh tử vô tận. Trong mười hai nhân duyên này, mỗi yếu tố có thể là nhân, có thể là duyên, và không có yếu tố nào là nhân hoàn toàn hay duyên hoàn toàn. Chính mười hai yếu tố Duyên khởi này đã làm nhân làm duyên cho nhau, để sanh khởi và chi phối toàn bộ sanh mệnh cũng như đời sống của con người. Nói cách khác, khi mười hai nhân duyên được tập khởi là năm uẩn tập khởi, và đây là chiều hướng của khổ đau, luân hồi. Nhưng, ngược lại, khi mười hai nhân duyên này bị phá vỡ thì cấu trúc năm uẩn cũng tan rã, và đây là con đường của an lạc, giải thoát.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét