Quan điểm của Phật giáo về nguồn gốc loài người
Báo Giác Ngộ
Hỏi: Một lần, tôi có đọc được một đoạn của bài viết trong báo Giác Ngộ như sau “Khi được hỏi con người ở thế giới này từ đâu có, trong một bản kinh Phật trả lời: có những vị Trời sắp hết phước, họ nhìn xuống thế giới này thấy có ánh sáng liền tìm đến. Tới nơi, họ ăn thử trái cây nơi đây thấy ngon, liền mất thần thông nên ở lại luôn, làm tổ tiên loài người…”.
Xin cho biết xuất xứ của đoạn kinh trên và tóm tắt ý chính của kinh. Quan điểm của Phật giáo về nguồn gốc loài người có sự khác biệt như thế nào so với các lý thuyết khoa học đương đại?
Đáp:
Đoạn kinh trên được trích dẫn từ kinh “Khởi Thế Nhân Bổn – số 27” ( Đại Tạng Kinh Việt Nam, Trường Bộ Kinh, tập 2, Nxb. Viện nghiên cứu Phật học Việt nam, 1991, Tr 387. Kinh tương đương: “Kinh Tiểu Duyên – số 5” Đại Tạng Kinh Việt Nam, Trường A Hàm, tập 1, Nxb. Viện nghiên cứu Phật học Việt nam, 1991, Tr 285).
Theo quan điểm của Phật giáo được thể hiện cụ thể qua kinh Khởi Thế Nhân Bổn (Nikàya) và kinh Tiểu Duyên (Agama), thế giới là vô cùng, vô tận. Trong mỗi thế giới có các dạng thức tồn tại khác nhau. Ngoài thế giới chúng ta đang sống đây còn có nhiều thế giới khác, trong đó, cõi Trời Quang Âm là một trong những thế giới có sự liên hệ mật thiết với chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề. Vào thời kỳ hình thành của thế giới này (có thể hiểu là quả đất và Thái dương hệ của chúng ta), các chúng sanh ở Quang Âm thiên sau khi thác sinh sẽ được chuyển sinh vào thế giới mà chúng ta đang sống. Buổi đầu hình thành thế giới, chưa có sự phân biệt giữa ngày và đêm, chưa có sự phân biệt giữa nam và nữ. Đất đai lúc đó có màu sắc và hương vị rất ngon ngọt. Khi ấy, “những chúng sanh này, do ý sanh, nuôi sống bằng tự hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không” (Kinh Khởi Thế Nhân Bổn). Sau đó, có một số chúng sanh nổi lên ý tưởng thử nếm vị ngọt của đất. Sau khi nếm, trong họ khởi dậy lòng tham ái thì ngay lúc đó, ánh sáng trên thân thể của họ biến mất. Lòng tham ái đã khiến cho các chúng sanh ấy trở nên thô xấu, họ không còn được tự tại, thanh thản như lúc đầu. Đồng thời, ý thức về giới tính xuất hiện, các chấp thủ phát sanh, điều kiện sống thay đổi…họ phải lao động cực nhọc để tồn tại và phải tranh đấu với nhiều điều kiện sống khắc nghiệt khác để khẳng định sự hiện hữu của mình.
Cùng bàn về vấn đề nguồn gốc loài người, một quan điểm được giải trình trước hội đồng khoa học và đã được thông qua, đó là: “lúc trái đất này hình thành, các chúng sanh xuất hiện đầu tiên từ Quang Âm Thiên, không cần thực phẩm. Rồi vị ngọt của đất và lúa đã cám dỗ họ khiến lòng ham muốn các hiện hữu khởi lên và phát triển trong tâm họ. Sau đó các bộ phận sinh dục cùng xuất hiện với các ham muốn dục tính. Khi dục vọng con người phát triển, các nhu cầu xã hội phát triển và yêu cầu có tổ chức các xã hội: xã hội con người được hình thành từ đó và các giai cấp xã hội xuất hiện”.(Thích Chơn Thiện, Lý thuyết nhân tính qua kinh tạng Pàli, Luận án Tiến sĩ Phật học tại Đại học Delhy Ấn độ năm 1996, NXB. TP Hồ Chí Minh ấn hành 1999, tr77).
Như vậy, theo quan điểm của Phật giáo thì nguồn gốc loài người trên trái đất này được xuất phát từ một thế giới khác, thế giới đó có tên là Quang Âm Thiên và đồng thời có những ưu điểm vượt trội hơn so với thế giới của chúng ta. Quan điểm này mặc dù được nhìn nhận, đánh giá dưới nhiều giác độ khác nhau nhưng theo chúng tôi, mãi đến hôm nay các lý thuyết về nguồn gốc loài người mà các nhà khoa học đưa ra vẫn đang còn nhiều vấn đề cần phải bàn cãi.
Đơn cử như lý thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người được đề cập trong tác phẩm: “Nguồn gốc các loài bằng con đường chọn lọc tự nhiên”. Ông cho rằng, con người được hình thành chính ở ngay thế giới này. Tuy nhiên, ở cuối tác phẩm này Darwin đã lưu ý rằng: “một ngày nào đó sẽ có sự bổ sung nhằm soi sáng nguồn gốc và lịch sử loài người” (Xem, Phạm Thành Hổ, Nguồn gốc loài người, Nxb. Giáo dục, 1997, Tr7). Điều này cho thấy rằng lý thuyết của Darwin là một lý thuyết mở, cần được bổ sung để kiện toàn. Gần đây nhất, đã có một số nhà khoa học cận hiện đại như Carl Sagan (1934 – 1996), Francis Crick (1916 – 2004) – người đồng khám phá ra chuỗi xoắn kép ADN – đã đưa ra giả thuyết cho rằng loài người trên trái đất có nguồn gốc từ các hành tinh, các thế giới xa thẳm trong không gian (Xem, Kiến Thức Ngày Nay số 314, 1999). Những nỗ lực tìm kiếm sự sống ngoài trái đất của các nhà khoa học trong những năm gần đầy đã cho thấy rằng, vấn đề nguồn gốc của loài người là một vấn đề chưa thể vội vàng đưa ra một kết luận chung cùng, đích đáng.
Nguồn gốc loài người dưới góc nhìn Phật giáo
trích từ sách ” Nguồn gốc loài người” tác giả Toàn Không (Đỗ Đăng Tiến)
(Trường A-Hàm, quyển 1, trang 547, 548. Quyển 2, trang 483-485)
Nói về nguồn gốc loài Người, một vấn đề liên quan tới nguồn gốc của chính Tổ-tiên xa xưa lâu đời của chúng ta; nó hết sức khó hiểu cho con người, đã có biết bao người suy nghĩ, nghiên cứu và lý luận để tìm câu trả lời. Ngày nay chúng ta đã có những thuyết trả lời khác nhau như sau:
- Thuyết cho rằng Người đầu tiên trên thế-gian này do một Thượng-Đế sinh ra, được viết trong Thánh Kinh của người Do-Thái giáo (Xin miễn bàn).
- Thuyết cho rằng loài Người do một loài Khỉ-Đột tiến hóa biến hóa mà thành, do một người nước Anh tên Charles-Robert-Darwin (1809-1882) nghiên cứu về loài Khỉ-Đột mà viết ra (Xin miễn bàn).
- Thuyết của Phật-giáo
Ở đây người viết không trình bày hay phê bình chỉ trích hai thuyết trên, mà chỉ trình bày và mô tả thuyết của Phật giáo. Người đọc có toàn quyền suy xét, nhận xét theo quan điểm riêng của mình. Dù sao đi nữa, chân-lý bao giờ cũng là sự thật; dù thời gian có trôi đi, không gian có đổi chỗ, nhưng trải qua nghìn muôn ức tỷ năm sau, hoặc tại châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, hay châu Úc đi nữa, chân-lý vẫn bất di bất dịch không thay đổi, đó mới là chân lý.
Sau đây tôi xin ghi lại thuyết nguồn gốc loài Người của Phật-giáo do đức Phật đã dùng Phật- nhãn (mắt Phật) chiếu soi, nhìn thấu về vô thủy, nghĩa là Ngài nhìn về quá khứ hàng vô số tỷ năm, nên Ngài nói ra những gì đã thấy. Tôi viết như vậy chỉ là lấy ý của một kẻ phàm-phu mà viết, chứ chẳng phải như triết thuyết của Phật-giáo Tối-thượng-thừa; theo Phật-giáo Tối-thượng-thừa thì: “Như-Lai không đến, không đi, không quá khứ, không hiện tại, không tương lai, chỉ như như”. Nghĩa là chân-tánh cùng khắp không gian chỗ nào cũng có, chân-tánh cùng khắp thời gian lúc nào cũng hiện diện; như vậy làm gì có sự phân biệt qúa khứ, hiện tại, tương lai, đâu còn phân biệt chỗ này chỗ kia nữa.
Khi có thế giới (thế gian) hư hoại, hủy diệt bởi đại Hỏa tai, tất cả con người ở đó chết đi, hóa sinh đến cõi Trời Quang-Âm tương ưng với Nhị-thiền Sắc giới. (Khi có thế giới hư hoại hủy diệt bởi đại Thủy tai, tất cả con người chết đi, hóa sinh đến cõi Trời Biến-Tịnh tương ưng với Tam-thiền Sắc-giới. Khi có thế giới hư hoại, hủy diệt bởi đại Phong tai, tất cả con người chết đi hóa sinh đến cõi Trời Qủa-Thật tương ưng với Tứ-thiền Sắc-giới). Các vị Trời ở Quang-Âm Thiên sống rất lâu dài là 8 A-Tăng-Kỳ (1 A-Tăng kỳ = 1 Kiếp = 16,798,000 năm, sẽ giải thích cách tính sau, ở mục các đại tai họa).
Các vị Trời ở cõi Quang-Âm Thiên khi thọ mạng và hành nghiệp đã hết, họ chết đi ở đó, và hóa-sinh đến cõi Trời Không-Phạm (Phạm-Thiên), tức là sinh đến cõi Trời khác thấp hơn (cõi Phạm-Thiên tương ưng với Sơ-thiền Sắc-giới).
Bấy giờ vị Phạm-Thiên (vị Trời ở cõi Không-Phạm) hóa-sinh ra đầu tiên tự nghĩ: “Ta là Đại Phạm-Thiên, tự nhiên mà có, không ai tạo ra ta. Ta có thể thấu suốt được tất cả nghĩa lý, rất được tự-tại, và vi diệu bậc nhất. Ta trước đây chỉ có một mình, và do sức ta mà có chúng-sanh, ta tạo ra chúng-sanh”. Vì trước đây ta nghĩ: “Phải chi có những chúng-sanh khác được ra đời, thì ta vui biết mấy! Và sau đó có những chúng-sanh sinh ra, tuổi thọ của ta sống lâu hơn các chúng-sanh sinh ra sau, do đó ta là bậc nhất, hơn hết tất cả”.
Đồng thời những vị Phạm-Thiên hóa-sinh ra sau tại cõi Trời Không-Phạm cũng tự nghĩ: “Vị ấy là Đại Phạm-Thiên, không do ai sinh ra và tự nhiên có. Vị ấy thấu suốt các nghĩa lý, rất được tự-tại, có thể tạo ra, và có thể hóa ra. Vị ấy vi diệu bậc nhất và đáng tôn kính bậc nhất, vị ấy sống lâu hơn chúng ta; trước chỉ có vị ấy, sau mới có chúng ta, vị ấy đúng là đấng tạo ra chúng ta”.
Tất cả chúng-sanh tại cõi Trời Không-Phạm đều tùy theo phúc nghiệp đã tạo ra trước kia mà được qủa báo là:
- Đại Phạm-Thiên:
Vi diệu, đẹp đẽ, uy nghi, tự tại, hạnh phúc, có ánh sáng cực kỳ rực rỡ; vị Đại Phạm-Thiên ví như vua có các vị Phạm-Thiên thân cận, và Phạm-Chúng-Thiên bao quanh. Tuổi thọ của Đại Phạm-Thiên là một 1 Tiểu kiếp rưỡi = 16,798,000 + 8,399,000 = 25,197,000 năm của trái đất.
- Phạm-Thiên:
Là những vị Trời thân cận Đại Phạm-Thiên, kém vị Đại Phạm-Thiên một chút, ví như các vị quan đại-thần; các vị Phạm-Thiên sống lâu một Tiểu kiếp = 16,798,000 năm của trái đất.
- Phạm-Chúng-Thiên:
Là các vị Trời tùy tùng các vị Phạm-Thiên, cũng có đầy đủ thần thông, nhưng không bằng các vị Phạm-Thiên; Phạm-Chúng-Thiên sống lâu một nửa Tiểu kiếp = 16,798,000 / 2 = 8,399,000 năm của trái đất.
Những chúng-sanh ở cõi Phạm-Thiên tuỳ theo thọ mạng và hành nghiệp hết, qua đời, và sinh đến trái đất (thế-gian) này.
Các chúng-sanh sinh đến thế-gian này khi mặt trời và các hành-tinh được cấu thành và ổn cố rồi, tức là mới thành lập (lập Địa); hoặc được thành lập trở lại sau khi bị hủy hoại (tái lập Địa) bởi một trong ba đại tai họa, đó là đại Hỏa tai, đại Thủy tai, hoặc đại Phong tai (sẽ trình bày ở một mục sau). Khởi đầu, các chúng-sanh này đều do hóa-sinh mà ra, không phải là một chúng-sanh được hóa sinh ra đời, mà là nhiều chúng-sanh được hóa sinh ra tùy theo thọ mạng hết tại cõi Trời Không-Phạm. Có thể là các chúng-sanh khởi đầu ấy hóa sinh ra không cùng một lúc, và không do chúng-sanh trước sinh ra chúng-sanh sau.
Các chúng-sanh đầu tiên ấy: không cần chúng-sanh khác nuôi nấng dạy bảo trông nom, mà có thể tự lực sinh sống; họ lấy niệm thực để ăn, nghĩa là lấy sự vui vẻ, thanh tao, nhàn tản làm thức ăn. Nói đúng hơn, như thức ăn ngày nay, họ không cần ăn uống mà vẫn sống phây phây, không thấy đói khát, lại luôn luôn mạnh khỏe, thật sung sướng vô cùng.
Trên thân thể họ phát ra ánh sáng, soi chiếu khắp chung quanh. Họ có thể nhìn thấy rõ ban đêm cũng như ban ngày. Họ có thần-túc-thông đi, bay trên hư không chớp nhoáng, nhẹ nhàng, an lạc, tự-tại, vô ngại, suốt ngày đêm vui vẻ bay nhảy đùa rỡn với nhau thỏa thích. Họ không cần ăn uống, không cần làm việc chi cả, cuộc sống vô cùng thanh tao nhàn hạ; họ muốn đi đâu thì đi, muốn nghỉ thì nghỉ, muốn ngủ thì ngủ, luôn luôn thoải mái chẳng có gì là mệt nhọc buồn phiền cả.
Bấy giờ không có nam nữ phân biệt vì hình dạng giống như nhau, mọi chúng-sanh đều đẹp tuyệt vời; không có tôn ty trên dưới, ai cũng như ai, bình đẳng hoàn toàn, không ai động chạm tới ai vì không có gì để tranh giành cả. Không có tuổi tác, không có trẻ già, tất cả chúng-sanh đều tươi trẻ như nhau; không có tên gọi khác nhau, khi nói chuyện thì nói ta, ngươi, chúng-sanh này, chúng-sanh kia, chúng ta, chúng ngươi v.v…
Thế-gian này chỉ có nhiều chúng-sanh (Người) hóa-sinh ra, nên gọi là chúng-sanh; các chúng-sanh sống cuộc sống an nhàn thoải mái, không có sự tham lam, không có sự giận hờn, không có đẹp xấu, hơn thua, phải trái, yêu ghét, đói no v.v.., nghĩa là không có bất cứ một tranh cãi phiền não, dù đó là sự tranh cãi phiền não nhỏ bé của ngày nay.
Các chúng-sanh sống cuộc sống đẹp đẽ như thế một thời gian khá lâu dài, rồi đại Địa (qủa đất lớn) này tự nhiên có nước xuất hiện, nước ngưng tụ trên mặt đất và nước có vị ngon như nước đề hồ; những chúng-sanh ấy thấy nước xuất hiện, thì sinh tâm thắc mắc, bèn hỏi nhau: “Đây là cái gì, đây là vật gì, ta chưa thấy cái lạ này bao giờ, cái này ở đâu ra?””
Những chúng-sanh ấy tự nghĩ: “Không biết cái này ra sao, nó có mùi gì, nó có vị gì?” Nghĩ như thế, họ bèn lấy ngón tay chấm rồi ngửi thì chẳng có mùi gì cả. Họ lại lấy ngón tay chấm nước đề-hồ cho vào miệng nếm thử. Sau khi nếm, họ thấy ngon họ gọi cái ấy là “Nước” và họ khen:
“Cái này ngon, nước này ngon quá!”
Những chúng-sanh khác thấy khen ngon, cũng bắt chước làm theo, họ dùng ngón tay chấm nếm thử. Lúc đầu nếm thử, họ cũng thấy ngon, liền sinh tâm đắm nhiễm, cứ chấm nếm hoài không thôi; dần dần tâm ưa thích càng tăng, họ dùng cả bàn tay bốc để ăn, những chúng-sanh khác trông thấy thế, cũng bắt chước lấy tay bốc ăn. Càng ăn, tâm đắm nhiễm càng nhiều, nên họ bốc ăn mãi liên tiếp, và họ cứ tiếp tục ăn mãi như thế không biết chán.
Trải qua một thời gian không lâu, thân thể của chúng-sanh trở nên nặng nề, thô kệch, không còn mềm mại, và không còn bay trên hư không được nữa, mà phải đi trên đất. Trên thân mình chúng-sanh mất dần ánh sáng, và không còn nhìn rõ trong đêm tối được nữa. Những chúng-sanh ấy bắt đầu than van về việc thân họ mất ánh sáng và mất nhẹ nhàng, nhưng họ vẫn giữ tâm ưa thích vị nước và họ không ngừng dùng tay bốc nước để ăn uống.
Sau một thời gian lâu dài như thế, rồi nước tự nhiên biến mất (vì nước ngấm vào đất, chảy xuống các chỗ thấp xa xôi, và bốc thành hơi), các chúng-sanh dùng ngón tay bới đất tìm nước. Không tìm thấy nước, chúng-sanh nếm (ăn) thử đất có thấm nước, nhão mềm như bùn, và cảm thấy cũng ngon; họ bèn ăn đất nhão mềm ấy, và gọi đó là “Vị đất”. Chúng-sanh khác thấy khen ngon cũng lấy tay bốc vị đất ăn. Những chúng-sanh nào ăn nhiều vị đất thì nhan sắc trở nên xấu xí, những chúng-sanh nào ăn ít vị đất thì nhan sắc còn tươi đẹp; lúc đó chúng-sanh bắt đầu sinh tâm phân biệt về nhan sắc, dung mạo, đẹp xấu. (Trường A-Hàm, Q2, từ 504 đến 512)
Có chúng-sanh nói:
- Ta đẹp.
Có chúng-sanh nói:
- Ngươi xấu.
Chúng-sanh sống một thời gian như thế, rồi dần dần đất khô cứng lại, không còn vị đất mềm nữa; bấy giờ chúng-sanh bắt đầu buồn rầu than thở mà nói: “Khổ thay, khổ thay, đây là tai họa, tại sao vị đất bỗng nhiên mất đi như thế?”
Sự kiện ấy cũng giống như ngày nay người ta có đầy đủ thức ăn ngon, thì người ta nói: “Ngon quá, ngon quá!”, nhưng sau đó thức ăn ngon ấy bỗng dưng hết không còn nữa, họ lấy làm nhớ tiếc, buồn rầu; những chúng-sanh nhớ tiếc vị đất, cũng buồn rầu như thế, từ đó chúng-sanh bắt đầu sinh tâm buồn phiền.
Khi đất khô cứng lại, trên mặt hình thành một lớp vỏ mỏng như cái bánh ngày nay (cũng giống như ngày nay mỗi khi có nước lụt lớn, nước đục lẫn đất tràn vào đồng ruộng; sau khi hết lụt lội, nước bốc hơi cạn đi, đất trở nên khô cứng, đồng ruộng nứt nẻ, có một lớp đất mỏng ở trên mặt), không có vị đất, chúng-sanh bèn bóc lấy lớp đất ấy để ăn, và họ gọi là “Vỏ đất”. Dần dần họ cảm thấy ăn vỏ đất cũng có mùi vị và ngon miệng. Trong số đó những chúng-sanh nào ăn nhiều nhan sắc trở nên xấu xí hơn, những chúng-sanh nào ăn ít thì còn giữ được tươi đẹp. Chúng-sanh tranh cãi nhiều hơn về dung mạo nhan sắc, có chúng-sanh nói:
- Ta đẹp hơn ngươi.
Có Chúng-sanh nói:
- Ngươi xấu hơn ta.
Có chúng-sanh nói:
- Chúng-sanh này đẹp hơn chúng-sanh kia.
Về sau có thứ nấm mọc từ đất xuất hiện, nấm có màu sắc đẹp, mềm mại; chúng-sanh thấy vật lạ xuất hiện thì thắc mắc hỏi nhau: “Đây là cái gì, đây là vật gì, cái này trông lạ qúa, ta chưa thấy vật này bao giờ, nó là cái gì? v.v…”
Họ bèn lấy tay sờ thấy mềm, họ bèn cầm cây nấm kéo lên rồi ăn thử, họ thấy ngon ngọt và có mùi thơm vị ngon hơn vỏ đất; họ gọi vật ấy là “Nấm đất”, vì nó mọc từ đất lên. Họ nói cho những chúng-sanh khác biết như thế, chúng-sanh khác nghe nói cũng làm theo.
Từ bấy giờ chúng-sanh thôi ăn vỏ đất và cùng nhau ăn nấm đất. Trong số đó, những chúng-sanh nào ăn nhiều nhan sắc trở nên xấu hơn nữa, những chúng-sanh nào ăn ít nhan sắc còn giữ được tươi đẹp. Các chúng-sanh sinh tâm phân biệt tranh cãi đẹp xấu nhiều hơn, có chúng-sanh nói:
- Sắc đẹp của ngươi kém sắc đẹp của ta.
Có chúng-sanh nói:
- Ta đẹp, ngươi xấu, sắc đẹp của ta hơn sắc đẹp của ngươi.
Có chúng-sanh nói:
- Ngươi xấu hơn ta nhiều, ngươi xấu qúa, tại sao ngươi xấu thế?
Có chúng-sanh nói:
- Chúng-sanh này đẹp, chúng-sanh kia xấu, tại sao thế?
Chúng-sanh sinh tâm hơn kém, ôm lòng cạnh tranh càng ngày càng tăng; họ sống như thế một thời gian khá lâu, rồi tự nhiên nấm đất dần dần ít đi; chúng-sanh thấy nấm đất ít đi, họ tụ tập lại mà than vãn với nhau, một chúng-sanh hỏi:
- Tại sao tôi không thấy có nhiều nấm đất như trước kia?
Các chúng-sanh khác đều trả lời:
- Tôi không biết tại sao.
Có chúng-sanh nói:
- Bây giờ chúng ta phải đi xa để tìm kiếm nấm đất mà ăn.
Nhiều chúng-sanh nói: “Khổ thay, khổ thay, đây là tai họa cho chúng ta, tại sao nấm đất càng ngày càng ít đi như thế?”
Thế là họ rủ nhau đi chỗ xa tìm kiếm nấm đất để ăn, đang khi nấm đất ít dần đi như thế và các chúng-sanh đều lo lắng không có đủ nấm đất để ăn, tự nhiên có một số loại cây có hạt xuất hiện như lúa gạo, lúa mì, lúa mạch v.v…
Các chúng-sanh thấy các cây có hạt xuất hiện nên ngạc nhiên vô cùng, họ không biết những thứ ấy từ đâu mà sinh ra; các loại cây này sinh ra nhiều hạt không có vỏ cứng, chúng-sanh thấy thế thì lấy ăn thử, họ ăn thấy bùi bùi, ngon ngon, lại có mùi thơm. Họ bèn lấy các hạt ấy để ăn và bảo nhau cùng ăn. Do nhân duyên này nên có tên “Hạt gạo, hại mì. hạt mạch, v.v..”. Từ lúc bấy giờ, chúng-sanh cùng nhau lấy hạt để ăn, họ ăn hạt trong một thời gian không lâu, thân hình trở nên thô xấu hơn, phát triển nẩy nở mạnh mẽ.
Bắt đầu từ lúc bấy giờ, các chúng-sanh có hai loại thân hình sai khác nhau, nên mới có danh từ: “Chúng-sanh Nam (đàn ông), chúng-sanh Nữ (đàn bà)”. Con Người bắt đầu thành hình rõ rệt và phát triển từ đấy, các chúng-sanh nam lạ lùng về hình dáng khác biệt của các chúng-sanh nữ, phái nữ lạ lùng về sự sai khác hình dáng của phái nam. Các chúng-sanh phái này thích nhìn chúng-sanh phái kia, họ nhìn nhau, và nhìn nhau không biết chán, họ nhìn nhau mãi không thôi. Rồi chúng-sanh phái này bắt đầu sinh tâm thích thú, lưu luyến phái kia, và chỉ muốn gần gũi nhau; họ thích nhìn ngắm (vướng mắc về Sắc) vuốt ve (vướng mắc về Xúc chạm) những thứ khác lạ của nhau, và họ bắt đầu thích nói chuyện (vướng mắc về Thanh), khen ngợi lẫn nhau. (Trung A-Hàm, quyển 3, từ 526 đến 532)
Tưởng (ý nghĩ) dục (dâm dục) từ đó phát sinh, chúng-sanh nam và chúng-sanh nữ cùng nhau tìm chỗ kín đáo hay chỗ không có chúng-sanh khác để được tự do nhìn ngắm, nói chuyện, ôm ấp, vuốt ve, và làm điều bất tịnh (làm tình). Những chúng-sanh khác thấy thế, bèn nói: “Than ôi! Đó là việc sai trái, tại sao chúng-sanh nam này cùng với chúng-sanh nữ kia làm việc dâm dục xấu xa như thế?”
Danh từ “Ôm ấp, vuốt ve, dâm dục, làm tình” bắt đầu có từ đó; những chúng-sanh nam làm việc bất tịnh dâm dục ấy thấy chúng-sanh khác quở trách thì ăn năn và nói: “Việc làm của tôi là sai quấy, tôi đã làm việc xấu xa, tôi đáng khiển trách”.
Tức thì chúng-sanh nam ấy gieo mình xuống đất không đứng dậy nữa, chúng-sanh nữ thấy thế thì lo chúng-sanh nam ấy đói, nên bèn đi lấy hạt (thức ăn) đem đến cho ăn, chúng-sanh khác thông thấy hỏi:
- Ngươi mang thức ăn này đi đâu?
- Chúng-sanh nam kia vì ăn năn về việc làm bất tịnh của mình, nên gieo thân xuống đất không chịu đứng dậy, tôi sợ hắn đói nên tôi đem thức ăn đến cho hắn.
Từ đây các chúng-sanh đã có đủ năm dục (Ngũ dục: Sắc, thanh, hương, vị, và xúc). Về sau chúng-sanh càng ngày càng tham đắm làm việc dâm dục nhiều hơn, và muốn che kín để tránh sự nhòm ngó của chúng-sanh khác, nên họ mới tìm đến chỗ kín đáo như nơi hang hốc, gò đống, hoặc tạo ra ngăn che riêng biệt kín đáo. Bởi nhân duyên ấy nên mới có danh từ: “Hang ổ, chỗ kín đáo, chỗ riêng biệt, chỗ ở, túp lều, nhà, v.v…” và gọi chúng-sanh nam, chúng-sanh nữ ở chung làm việc dâm dục là “Nhân tình, chồng vợ”.
Từ lúc đó, những chúng-sanh khác tại cõi Trời Phạm hết mạng sống, hoặc hết hạnh nghiệp, hoặc hết phúc báo nên chết tại đó sinh đến thế gian này, nhưng không còn là hoá-sinh nữa, mà ở trong bào thai của chúng-sanh nữ. Nhân đó mới có danh từ: “Có thai, có chửa, có bầu, bào thai, đẻ con, sinh con, con trai, con gái v.v…”, từ đây bắt đầu đặt tên cho con khi mới sinh đẻ ra, và người nam nữ sống chung có con là một ”gia đình”.
Cũng cần ghi nhận rằng: từ khi các loại cây có hạt vỏ mềm xuất hiện, chúng-sanh lấy hạt để ăn, khi hạt lấy đi rồi, những hạt khác lại sinh ra. Sáng lấy chiều lại có, chiều lấy sáng hôm sau có, vì vậy nên lấy hoài, ăn hoài không hết; họ sống một thời gian như thế khá lâu rất thoải mái.
Bỗng có chúng-sanh tự nghĩ: “Nếu mỗi ngày đều đi lấy hạt thì nhọc công quá, nay ta nên lấy gấp hai để ăn trong hai ngày”. Sau khi nghĩ như vậy rồi, chúng-sanh ấy bèn đi lấy đủ số lượng hạt để ăn trong hai ngày, “Tâm tham” bắt đầu phát sinh từ đây. Khi chúng-sanh nọ đến rủ đi lấy hạt, thì chúng-sanh ấy nói:
- Ta đã lấy hạt đủ để ăn trong hai ngày rồi, không cần đi lấy nữa, ngươi muốn đi tuỳ ý.
Chúng-sanh nọ nghe nói thế, bèn nghĩ: “Chúng-sanh ấy đã lấy hạt để ăn trong hai ngày, sao ta không lấy hạt để ăn trong ba ngày?” Nghĩ như vậy rồi, liền đi lấy hạt đủ dự trữ ăn trong ba ngày.
Cũng như thế ấy, có chúng-sanh kia đến gặp chúng-sanh nọ và nói:
Chúng ta hãy cùng đi lấy thực phẩm (hạt) để ăn,
Chúng-sanh nọ nói:
- Ta đã lấy thực phẩm đủ để ăn trong ba ngày rồi, ngươi tuỳ ý đi lấy.
Chúng-sanh kia nghe xong tự nghĩ: “Ngươi đã lấy dự trữ ăn trong ba ngày, ta sẽ lấy nhiều hơn, ta sẽ lấy dự trữ ăn trong năm ngày”. Chúng-sanh kia bèn đi lấy hạt đủ ăn trong năm ngày, tất cã chúng-sanh đều sinh tâm “tranh đua” nhau tích trữ hạt như thế, và càng ngày càng gia tăng mãi lên.
Sau một thời gian như thế, tự nhiên các loại hạt sinh ra “có vỏ cứng, có trấu” không ăn được ngay mà phải bỏ vỏ đi mới ăn được. Khi hạt lấy đi rồi, những cây ấy không còn sinh ra những hạt khác nữa, đồng thời các loại cỏ: cỏ lăn, cỏ lác, v.v… xuất hiện, mọc đầy cả.
Lúc đó, chúng-sanh gặp nhau kêu than, buồn rầu, họ ôm bụng tự than nói:
“Khổ thay, đây là tai họa, biết làm sao bây giờ? Chúng ta trước kia đều là hóa-sinh, không cần ăn uống gì cả, chỉ lấy sự rong chơi, nhàn tản đó đây làm vui vẻ thỏa thích (được tự tại). Trên thân chúng ta phát ra ánh sáng, nên nhìn khắp tất cả không trở ngại đêm cũng như ngày (Có hào quang). Chúng ta lại bay trên hư không, được an lạc, tự tại, vô ngại (Có thần túc).
Rồi sau nước xuất hiện như nước đề hồ, chúng ta thắc mắc muốn biết là vật gì (khởi ý niệm đầu tiên) nên dùng ngón tay chấm quệt cho vào mũi ngửi (khởi ý niệm thứ hai), rồi cho vào miệng nếm thử (khởi ý niệm thứ ba). Khi nếm thử thấy vị lạ, ngon (dính mắc vào vị), chúng ta liền sinh ra ưa thích, và nếm mãi không ngưng; lòng tham đắm càng ngày càng tăng lên, nên dần dần chúng ta dùng tay bốc để ăn cho được nhiều (tâm tham khởi sinh). Chúng ta bốc ăn mãi như thế không thôi. Rồi thân chúng ta không còn mềm mại nữa, mà trở nên thô kệch, nặng nề (vì có nước trong thân), không còn bay trên hư không được nữa (nặng nề qúa).
Sau một thời gian nước đề hồ dần dần biến mất, chúng ta phải ăn vị đất (vì cần phải có một cái gì trong bụng). Khi vị đất không còn, chúng ta ăn vỏ đất. Rồi nấm đất có mùi thơm và vị ngọt xuất hiện, chúng ta ăn nấm đất (dính mắc hương vị); trải qua mỗi thời kỳ, thân hình chúng ta càng ngày càng trở nên thô kệch xấu xí hơn, tâm trí chúng ta càng ngày càng cạnh tranh hơn thua về nhan sắc đẹp xấu (mà sự thực thì nhan sắc càng ngày càng xấu đi).
Từ khi các loại cây có hạt xuất hiện, chúng ta lấy hạt ăn mà không cần làm gì cả, hạt lấy đi rồi hạt khác lại sinh ra. Buổi sáng lấy buổi chiều các hạt mới sinh chín, buổi chiều lấy sáng hôm sau các hạt mới sinh chín, sẵn sàng để lấy ăn. Vì sự đua nhau lấy hạt cất giữ của chúng ta (phát sinh lòng tham), nên các loại hạt lấy đi, các hạt mới không sinh ra nữa; tệ hại hơn nữa các hạt sinh ra có vỏ, có trấu, không ăn hạt ngay được, mà phải bỏ vỏ, bỏ trấu đi rồi mới ăn được”.
Chúng-sanh cùng nhau suy nghĩ về các khó khăn ấy, và bảo nhau phải tìm cách bỏ vỏ đi, và tự gieo trồng để có hạt mà ăn; họ thỏa thuận với nhau việc phân chia đất ra từng ô để mỗi người tự trồng trọt trên phần đất của mình, từ đó danh từ “Ruộng rẫy, trồng trọt, v.v…” được nói đến, và có lời nói “Của ta, của ngươi”.
Họ cùng nhau gieo trồng chăm sóc để lấy hạt mà ăn, cuộc sống cũng tạm ổn; sau một thời gian yên lành như thế, có một số người sinh tâm dối trá (khởi tâm dối trá), họ giấu hạt của mình, và đi lấy hạt của người khác; tính gian dối bắt đầu từ đấy, những người bị mất trông thấy người khác lấy hạt của mình nói:
- Ngươi làm sai, ngươi làm quấy, tại sao ngươi giấu hạt của mình, rồi đi lấy vật thực của ta, từ nay ngươi không được lấy trộm nữa.
Từ đó có danh từ “Cất giấu, vật thực, dối trá, trộm, cắp” bắt đầu được nói đến, nhưng những người có tâm dối trá ấy vẫn tiếp tục làm điều xấu như trước, họ lại trộm cắp; khi bắt được kẻ trộm cắp, những người bị mất trách:
- Ngươi làm điều xấu xa, tại sao ngươi không bỏ việc đi trộm cắp?
Họ dùng tay đánh người trộm cắp, rồi cầm tay lôi kéo người ấy đến chỗ có nhiều người mà nói lớn lên rằng:
- Người này giấu vật thực của mình và đã trộm cắp của tôi hai ba lần.
Kẻ trộm thì nói:
- Người này đánh vào lưng tôi nhiều lần bằng tay, người này đánh đau tôi!
Lúc ấy các người khác nghe hai người nói thế, sinh lòng buồn rầu, lắc đầu, nói: “Thế-gian này dần dần trở nên độc ác, có phải đây là ác pháp sinh chăng?”
Từ đó phát sinh ra các danh từ “Lôi kéo, đánh đập, ác độc, v.v…” Con người từ đấy sinh lòng buồn khổ về việc này, rồi tiếp đến việc khác. Từ lòng buồn khổ ấy kết (tạo) thành qủa báo khổ não, các khổ não buồn phiền là nguồn gốc của “sinh già bệnh chết”, và các việc làm bất thiện là nhân để đọa sinh vào các cõi ác.
Từ khi ruộng đất được phân chia, chỗ ở tạo ra riêng biệt, và từ khi có kẻ sinh tâm tham lam, giấu giếm vật thực của mình, trộm cắp, dành giật vật thực của người khác. Con người cãi lộn, nói xấu, giằng co, thậm chí đi đến đánh nhau và tìm cách giết nhau, các việc không tốt như thế xảy ra hàng ngày càng nhiều hơn lên, họ không sao tự giải quyết được; họ bèn thảo luận và thỏa thuận với nhau rằng họ cần một người có đủ khả năng để trông coi phân xử mọi việc xảy ra cho họ.
Bấy giờ, trong chúng-sanh có người hình vóc to lớn, khoẻ mạnh, dung mạo đoan chính, nói năng từ tốn phải lẽ, trông rất uy nghi, và có đức độ; mọi người thấy thế bèn đến nói với người ấy:
- Như ông biết ngày nay có nhiều việc không tốt đẹp xảy ra hàng ngày, chúng tôi thấy ông là người tốt, mạnh khoẻ, có đủ khả năng làm người trông coi, và phân xử các việc xảy ra. Chúng tôi muốn tôn ông lên làm người trông coi phân xử công bằng, khen người làm việc tốt, chê bai trừng phạt kẻ làm việc xấu v.v…; vậy ông khéo giúp đỡ mọi người, chúng tôi mỗi người sẽ bớt ra một số vật thực để tặng ông.
Người ấy nghe xong thấy hay, bèn chấp nhận làm người trông coi phân xử; từ đó, mới có danh từ “người trông coi phân xử, người có trách nhiệm giữ trật tự chung, người đại diện dân, v.v…” Về sau các việc giải quyết càng ngày càng nhiều, nên cần có người phụ giúp; những người có trách nhiệm trông coi phân xử ấy được tổ chức thành nhiều người có một người đứng đầu chỉ huy, nên từ đó có những danh từ mới được nói đến như “Người trông coi, người đứng đầu, người lãnh đạo, chúa, vua v.v…”.
Tóm lại, những người sinh ra đầu tiên trên trái đất này đều từ cõi Phạm-Thiên sinh đến bằng hóa-sinh, nghĩa là không có ai sinh đẻ ra , hay một vị nào tạo ra cả, mà là chết từ cõi Phạm-Thiên rồi sinh đến cõi này bằng hóa sinh. Những người mới hóa-sinh ra không cần đến người khác nuôi nấng chăm sóc, bế bồng mà vẫn sống được một mình; vì dù mới sinh ra, nhưng họ không cần ăn uống như trẻ mới sinh ngày nay. Cũng không phải là chỉ có một người được hóa sinh ra, mà là nhiều người cùng hóa sinh ra, nhưng cũng có người hóa sinh ra trước, kẻ hóa sinh ra sau, tuỳ theo hạnh nghiêp, phúc báo, và mạng sống ở cõi Trời Không-Phạm đã hết chết đi, sinh đến cõi này. Cũng vì mọi người đều được hóa sinh ra như thế, nên không có cha mẹ, không có ai đặt tên cho, nên mọi người đều có cái tên chung gọi là chúng-sanh.
Chúng ta không thấy nói tới hình hài của những người đầu tiên ấy, nhưng chắc là có thân hình trong vắt như pha lê(?), mềm mại, nhẹ nhàng, có ánh sáng phát ra, nên bay đi tới lui dễ dàng. Khi bốc nước ăn uống thì dần dần thân hình trở thành căng phồng lên giống như bơm nước vào bong bóng(?), con người trở thành thô cứng, nặng nề, không còn nhẹ nhàng để bay được nữa, nhưng vẫn còn trong đẹp. Đến khi ăn bùn, ăn đất, cho đến ăn nấm đất, con người trở thành có màu giống màu bùn đất(?) xấu xí. Và khi tới giai đoạn ăn các hạt, con người mới thực sự phát triển, nẩy nở các cấu trúc của cơ thể
Những người đầu tiên ấy sống từ lúc lập Địa, hay tái lập Địa, họ sống từ lúc hóa sinh ra tại trái đất này cho đến khi chết trung bình khoảng 84,000 (tám mươi tư nghìn) năm; họ sống rất lâu, rất thọ như thế, (họ thọ gấp một trăm linh (lẻ) năm lần ông Bành-Tổ mà người ta thường nói đến chỉ sống khoảng 800 năm mà thôi).
Chắc rằng có một số người không tin rằng những con người sinh ra đầu tiên trên trái đất này lại sống lâu như vậy. Người không tin cũng giống như người vừa sinh ra đã bị mù mắt không thấy được các màu sắc khác nhau như thế nào, nên khi có người nói với người mù ấy về sự khác biệt giữa các màu sắc trắng xanh vàng đỏ đen tím nâu v.v., thì người mù ấy không tin, không tưởng tượng nổi sự khác biệt giữa các màu sắc, và nói rằng làm gì có các màu sắc khác nhau như thế.
Vậy những con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này từ lúc lập Địa hay tái lập Địa đến bây giờ, phải là bao nhiêu triệu năm? Về điểm này sẽ được nói tới ở phần lời bàn nơi cuối đề tài này, trước đây, người ta đã phát giác ra những kiến trúc nhà cửa ở dưới đáy Đại-Tây-Dương rất là lâu đời rồi; mới đây, với sự tiến bộ của con người, các nhà Khoa-học khám phá ra những bộ xương hóa đá chôn vùi dưới đất của loài tương tự cá sấu gọi là SuperCroc mà các nhà cổ sinh vật học Pháp đã đặt cho chúng cái tên khoa học Sacosuchus imparator cách nay vài chục năm. Những con vật này có chân dài ba thước nhưng sống trên cạn, có niên kỷ cách nay 110 triệu năm, chúng sống đồng thời với những con vật Khủng long, và những con Titanosaurus.
Các nhà khoa học còn cho rằng Nam Mỹ-châu đã tách rời khỏi Phi-châu cách nay khoảng 70 triệu năm, vì họ tìm thấy các bộ xương hóa đá của cá sấu cùng loại tại Patagonia thuộc Argentina (Nam Mỹ châu) và Madagasca thuộc Phi-châu.
Nhưng xa hơn thế rất nhiều, các nhà Khoa-học Đức lại khám phá ra vỏ loài Sam biển hóa đá, nó đã xuất hiện trên trái đất với niên kỷ là 330 triệu năm rồi, thành ra sự truy nguyên về qúa khứ của các nhà khoa-học vẫn còn chưa rõ ràng.
Về sau, tuổi thọ của con người giảm xuống, có những thời kỳ tuổi thọ tăng lên, có những thời kỳ tuổi thọ giảm xuống, và bây giờ tuổi thọ trung bình của con người quá ngắn ngủi, khoảng 75 tuổi (Phật lịch: năm 2629, Dương lịch: năm 2006). Tuổi thọ của con người tuỳ thuộc vào ý nghĩ và hành động của con người. Ý nghĩ này không phải là ý nghĩ muốn sống lâu mà được, mà là ý nghĩ những việc thật thà, đạo đức, hay ý nghĩ gian dối lừa đảo, mưu mô độc ác. Ý nghĩ là đầu mối của hành động, ý nghĩ bằng tâm (óc, bộ não), hành động bằng thân (đầu, mình, tay chân và các bộ phận phụ thuộc thân) và khẩu (mồm miệng). Tâm nghĩ, thân làm, miệng nói, miệng cũng thuộc về thân, nên mới nói “Tâm nghĩ thân hành” (thân làm).
Nói chung là tâm thân hành của đa số con người tạo nên cộng nghiệp, cái cộng nghiệp này nó dẫn dắt tuổi thọ trung bình của con người, còn cái biệt nghiệp của mỗi người nó sẽ dẫn dắt chính người đó. Ví như ngày nay có người sống chín mươi tuổi, nhưng cũng có người chỉ sống năm mươi tuổi v.v… mà thôi.
Từ những niệm tham, sân, si dẫn dắt ý khẩu thân hành động, đưa đến qủa báo khổ não là sinh già bệnh chết, và đọa sinh vào sáu cõi; nghiệp báo trói chặt con người trong sáu nẻo phải đi qua, đó là: “Các cõi Trời, cõi Người, cõi A-tu-La (Thần), cõi Ma-Qủy, cõi Súc-sanh, và cõi Địa-ngục”.
Con người cứ thế sinh ra, già đi, bệnh tật, chết đi, trải dài theo thời gian lên bổng xuống chìm, tuỳ theo ý thân hành thiện hay ác của mỗi người, đó là tạo nghiệp; nghiệp dẫn dắt ta như hình với bóng không sao thoát ra khỏi, ngoại trừ những vị tu hành đạt đạo thì mới ra khỏi vòng luân hồi luẩn quẩn ấy mà thôi.
Đến đây: chúng ta không thấy nói tới vạn vật cây cỏ bắt đầu xuất hiện trên trái đất này từ lúc nào? Các loại cỏ thì được nói đến ngay khi các loại cây có hạt có vỏ có trấu xuất hiện thì các loại cỏ đồng thời xuất hiện, và có lẽ các loại cây khác cũng với thời gian sau đó dần dần xuất hiện; riêng về các loài vật thì không thấy đề cập tới, nhưng nhận thấy con người từ khi tạo nghiệp báo, sinh khổ não đi đến già bệnh chết, rồi sinh vào sáu cõi khác nhau tùy theo ý khẩu thân hành việc lành dữ. Do đó các loài súc vật với thời gian sau đó dần dần xuất hiện trên trái đất này, còn những con vật đầu tiên của mỗi loài được sinh ra bằng cách nào? Người viết chưa được đọc về điểm này, nhưng được biết trong thiên nhiên cả thảy có bốn loại sinh, đó là:
- Hóa sinh:
Chúng-sanh đột nhiên mà có, bỗng nhiên xuất hiện, không qua giai đoạn phôi thai nào cả. Những chúng-sanh thuộc loại hóa sinh thường là vô hình như chư vị Trời, A Tu La, Ngạ-qủy v.v… và những người đầu tiên như đã nói ở trên.
Lại có những loài biến hóa sinh ra từ một loại khác như ve, bướm v.v… Loại này đời trước hay thay đổi lòng dạ, trước sau nói khác nhau, cố làm cố phạm. (Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận, trang 22)
- Noãn sinh:
Là những chúng-sanh sinh từ trong trứng gồm có: Loài có lông vũ như gà, chim, loài bò sát như rùa, rắn, và loài sống với nước như cá; loại này, đời trước tham lam, mưu mô lừa đảo, kế hoạch cao thì làm chim, kế hoạch sâu thì làm cá. (Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận, trang 21)
- Thai sinh:
Là những chúng-sanh sinh từ bào thai như người và các loài thú, đời trước tham đắm dâm dục; tham dục phải đạo thì làm người, tham dâm ngang trái thì làm thú bốn chân đi ngang.
- Thấp sinh:
Là những chúng-sanh sinh từ nơi ẩm ướt như vài loài côn trùng, muỗi mòng, vi khuẩn, vi trùng, gạo ẩm sinh mọt, cỏ mục sinh đom đóm, lúa sinh sâu… Đời trước tham ăn thịt uống rượu, lấy việc đánh đập, gây gỗ, ồn ào làm vui.
Trong quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 167, có thêm chi tiết như sau: “Noãn, Thai, Thấp, Hóa sinh đều lấy cái định nghiệp mà tương cảm nhau, cho nên cái định báo của chúng-sanh cũng tùy theo chỗ cảm mà ứng. Như loài sinh trứng thì ứng theo loạn tưởng mà sinh. Loài sinh thai thì ứng theo tình ái mà sinh. Loài Thấp sinh thì ứng theo hiệp mà sinh, tức là nương phụ với thấp khí. Loài Hóa sinh thì ứng theo Ly mà sinh, tức là bỏ đây tới kia. Xong , tình, tưởng, hiệp, ly trong bốn giới ấy vốn không nhất định, hoặc tình biến làm tưởng, hiệp biến làm ly, hoặc đổi làm tình, hoặc thấp đổi làm hóa. Vậy tùy nghiệp thọ báo, cũng có thứ bay mà trở lại làm thứ lặn, cũng có thứ lặn mà trở thành làm thú bay, như cá hóa rồng; đại để những truyện kỳ quái như vậy rất nhiều, thay hình đổi xác, quay lộn luôn luôn; vì thế, chúng-sanh có hoài không dứt”.
Trong quyển Thiền Đốn Ngộ do Hòa-Thượng Thích-Thanh-Từ dịch năm 1974, phần Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn, trang 146 lại ghi: “Vô minh là noãn sinh, phiền não bao bọc ở trong là thai sinh, nước ái đượm nhuần là thấp sinh, chợt khởi phiền não là hóa sinh (từ loài này hóa sinh loài khác)”.
Ta thấy là con người có mặt trên trái đất này trước các loài thực vật và các loài động vật. Nhưng những con vật đầu tiên thuộc loại noãn sinh và thai sinh trên trái đất này từ đâu mà có? Con gà, con chim, con rùa v.v… có trước hay cái trứng gà, trứng chim, trứng rùa có trước, nếu những cái trứng có trước, cái gì sinh ra những cái trứng đầu tiên ấy? Người viết thiển nghĩ rằng những con vật đầu tiên ấy cũng là do hóa sinh mà ra. Kể cả những loài thai sinh cũng giống như vậy mà thôi.
Về nòi giống: chúng ta không thấy nói tới, đại loại trên thế giới này có mấy trăm nước và có rất nhiều tiếng nói khác nhau, ngay trong một nước cũng có nhiều thứ tiếng nói khác nhau, tại sao thế? Có lẽ rằng những nhóm chúng-sanh đầu tiên khi hóa sinh đến cõi này, ở những vùng cách biệt nhau nên phát sinh ra tiếng nói khác nhau; lại nữa, trên thế-giới này có những người da trắng, những người da vàng, những người da đen, tại sao vậy?
Có người muốn làm vui cho người khác, nên nói: “Thuở khai sinh lập địa, khi Thượng-Đế sinh ra con người bằng cách: Ngài nặn hai con người, một nam một nữ, xong Ngài bỏ hai con người ấy vào lò đốt lửa nung, lúc ấy Ngài ngủ quên nên không lấy ra kịp thời, khi nhớ ra hai người ấy đã bị cháy đen thui. Ngài bèn nặn hai người khác, rồi bỏ vào lò nung, lần này vì sợ cháy đen như lần trước Ngài lấy ra sớm qúa, nên trông còn trắng bệch. Thượng-Đế vẫn chưa vừa ý, nên nặn thêm hai con người nữa, Ngài tự nhủ, lần này Ta phải canh chừng để lấy ra cho đúng cho vừa ý, và qủa thật lần này Ngài nung được hai con người có nước da vàng vàng, không đen cũng không trắng đúng theo ý, Ngài nói: Thế là được rồi.
Bởi lẽ đó chúng ta mới có những người anh cả da đen, những người anh hai da trắng, và những người thứ ba da vàng. Ba cặp nam nữ này đã sinh con đẻ cháu nảy nở ra nhân loại trên trái đất này từ ngày đó đến ngày nay!”.
Trong những sự giải thích có lẽ lý do địa dư ảnh hưởng đến màu da con người, vì sau thời kỳ khai Thiên lập Địa hay tái lập Địa, trái đất trơ trụi. Những con người đầu tiên chịu biết bao khổ cực với thiên nhiên, phải dầm mưa dãi nắng bỏng cháy khét thân thể đầu tóc đối với con người sống ở vùng Xích-đạo như Phi-Châu, Ấn-Độ, Nam Mỹ. Con người phải chịu cái lạnh thấu xương tại vùng Bắc-Cực, Nam-Cực, mặt trời chiếu tới rất ít. Những khí hậu khác biệt ấy đã tạo nên màu da khác biệt của con người tiền sử và truyền lại nhân loại hiện tại (?)
Mặt khác, nên để ý rằng những chúng-sanh sinh ra đầu tiên không phải được sinh ra tại một nơi hay một vùng, mà đã được sinh ra ở nhiều nơi khác nhau trên mặt địa cầu này; ngoài ra, các chúng-sanh sinh tới cõi Quang âm Thiên trước kia có lẽ đã từ nhiều nơi (nhiều thế-giới) khác nhau hóa sinh tới đó, về sau các chúng-sanh hóa sinh đến cõi Phạm Thiên cũng có thể từ nhiều nơi khác nhau tới và sau khi chết đi đã sinh đến trái đất này; những điều trên đây có thể giải thích những sự khác biệt của các chủng tộc khác nhau tại thế-gian này.
Một điểm nữa được suy ra là trong thời kỳ đầu tiên của con người, chưa có phát minh ra lửa, nên chỉ là ăn sống không có thức ăn nấu nướng chín. Có lẽ sau đó có những vụ cháy rừng do các loại cỏ cây khô, con người mới biết tới lửa. Chưa có các đồ dùng như nồi niêu bát đĩa, chén đũa dao thớt v.v.., mà phải dùng hai bàn tay. Chỗ ở chỉ là hang ổ lều nhỏ thô sơ để trú thân, mà vật liệu là rơm rạ cỏ cây. Cũng không có quần áo che thân, mà phải dùng cỏ lá rơm rạ bó kết lại che thân. Thức ăn chỉ là ăn các loại hạt, lá, hoa qủa v.v… từ thực vật mà thôi.
Được biết, để giúp chúng sanh sống còn và tăng trưởng, ta thấy có bốn cách ăn như sau:
- Đoàn thực:
Ăn từng miếng, từng nắm, từng cục. Đây là cách ăn của loài người và các loài vật.
- Xúc thực:
Ăn bằng tiếp xúc, xúc chạm, như Quỷ Thần tiếp xúc với vật thực thì đủ no; cũng gọi là Cảnh lạc thực, như quần áo, hương hoa, cùng thiên nữ vui vầy khiến vui no đủ.
- Niệm thực:
Cũng gọi là Tư thực, ăn bằng ý suy nghĩ, tư tưởng, các cõi Trời Sắc-giới lấy thiền định, hỷ lạc làm vị ăn.
- Thức thực:
Ăn bằng thức phân biệt, niệm hiểu, ý biết; các tầng Trời vô Sắc-giới và chúng-sanh trong Địa-ngục đều lấy thức duy trì sinh mạng. (Trường A-Hàm, quyển 2, trang 402).
Về sau, sống với hoàn cảnh, cọ sát với thực tế, dần dần trải qua thời gian lâu dài, con người đã khám phá, phát minh và tạo ra rất nhiều thứ để làm cho cuộc sống được tốt đẹp hơn về vật chất; còn vấn đề tinh thần đạo đức mà ai cũng biết là cần thiết, nhưng phần lớn chỉ được dàn dựng lên bằng những lớp vỏ bề ngoài hào nhoáng, mà thực ra bên trong có nhiều vụ lợi, thiếu chân thật. Con người càng ngày càng có mưu thâm độc sâu, kế hiểm ác cao, nên nghiệp qủa càng ngày càng sâu dày nặng nề vậy. (Tạp A-Hàm, Q 2, trang 70: Bốn cách ăn)
LỜI BÀN: Tuổi thọ tối đa của con người:
“Thế nào là kiếp đao binh? Nghĩa là con người ở thế gian này vốn sống 40,000 (bốn vạn) tuổi, sau đó giảm dần còn sống hai vạn tuổi, và tiếp tục giảm xuống còn một vạn tuổi, một ngàn tuổi, năm trăm tuổi, ba trăm tuổi, hai trăm tuổi. Như ngày nay con người sống trăm tuổi, tăng ít, giảm nhiều; nhưng về sau, tuổi thọ con người giảm dần, chỉ còn 10 (mười) tuổi là dừng lại”.
Quyển Đường Về Bến Giác của Hòa-Thượng Thích-Thanh-Cát, trang 78 ghi: “Theo luận Trí Độ thì người ta thọ từ 10 tuổi, cứ trăm năm lại tăng một tuổi, cứ tăng mãi cho tới khi nào thọ 84,000 tuổi mới thôi…”; theo quyển Nhị Khóa Hiệp Giải thì lại lấy 80,000 năm là tuổi tối đa để tính ra Kiếp và Đại kiếp, như vậy chúng ta không chắc chắn tuổi thọ tối đa của loài người là bao nhiêu.
Tuy nhiên trong sách này người viết cũng phải lấy con số 84,000 năm làm tuổi tối đa (như quyển Đường Về Bến Giác đã ghi) để tính số năm của kiếp, đại kiếp. Nếu sau này có sự khám phá ra số tuổi thọ tối đa của con người có sự khác biệt với con số tối đa 84,000 năm nêu trên, thì số năm trong một kiếp, trung kiếp, đại kiếp, v.v… của sách này phải thay đổi theo.
LỜI BÀN: Tuổi thọ con người có đang giảm xuống không?
Ngày nay khoa học đang tiến bộ, kể cả ngành Y khoa mà ai cũng thấy; vậy mà đạo Phật lại nói ngày nay đang vào thời kỳ giảm tuổi thọ dần dần cho tới 10 tuổi thọ, vậy liệu có đúng không? Thật là khó trả lời rõ ràng, nhưng chúng ta thấy rằng:
1)- Hồi đức Phật còn tại thế, tuổi thọ trung bình là 100, đến nay đã 25 thế kỷ, 100 năm giảm một tuổi, tức giảm đi 25 tuổi. Chắc mọi người cũng đồng ý là tuổi thọ trung bình của con người bây giờ là 75, vì hồi ấy có người sống 120, 130 và cho đến 140 tuổi mà ngày nay không thể có.
2)- Hiện tại tuổi thọ trung bình là 75 tuổi, nhưng vẫn có người sống 100 tuổi hay hơn nữa, thế thì khi tuổi thọ giảm xuống còn 50 tuổi vẫn có người sống tới 70 hay 80, khi tuổi thọ giảm xuống còn 25 tuổi vẫn có người sống tới 40 hay 50 tuổi v.v…
3)- Mặc dù khoa học tiến bộ, nhưng vì chính những cái tiến bộ đã làm ô nhiễm bầu khí quyển và môi trường sinh sống của con người; chính những hệ thống đông lạnh, máy lạnh đã làm hoại dần vòng o-zone của bầu khí quyển che chở cho trái đất. Chính những nhà máy, xe cộ các loại tỏa khói độc hại buồng phổi con người. Chính những chất hóa học thải ra từ việc làm ra cái này cái nọ đang thải vào các dòng sông và lan dần cùng khắp mặt địa cầu tác hại đến sức khỏe con người và muôn vật. Như các loài vật ăn, loài cây cối hấp thụ, loài cá sống trong các chất hóa học, chất độc, rồi con người ăn thịt loài vật, loài cá hay rau qủa ấy thì sẽ sinh bệnh. Chính các lò nguyên tử là nguồn gốc thải dần những phóng xạ đến khắp mọi nơi v.v…, do đó, phần lớn những việc làm có tính cách tiến bộ để phục vụ con người lại là nguồn gốc của sự hại mạng sống lâu dài của con người. Đó là chưa kể đến các tai nạn xảy ra nhiều hơn lên, các tai họa thiên nhiên xảy ra ngày càng nhiều hơn, các cuộc chiến tranh thường xảy ra trên thế giới tăng lên, nhất là chiến tranh nguyên tử có thể xảy ra gây chết chóc nhiều hơn cho lớp người trẻ tuổi làm cho tuổi thọ trung bình giảm xuống.
4)- Đồng ý rằng y khoa tiến bộ rất nhiều, nhưng thử hỏi ngành y tế có thể đương đầu với những tai hại do tiến bộ khoa học kể trên không? Bởi vì mỗi ngày sinh ra bệnh mới có thể do những thứ nêu trên gây ra, mà chúng ta không thể tiên đoán trước được.
5)- Con người càng ngày càng bôi bác gian dối, mưu trí tệ hại, giết người vui thích, huà với nhau bắt nạt kẻ yếu, hại người ngay trong vui thích. Tỉ như muốn có quyền lợi, thương lượng không được, bèn dùng mưu kế dàn dựng nên tội, rủ kẻ khác cùng nhau hiệp lực thanh toán, mặc cho máu có đổ, xương có chất thành núi đi nữa vẫn vui vẻ v.v…; như vậy thì làm sao mà tuổi thọ không giảm?
LỜI BÀN: Khi nào Phật Di-Lặc ra đời?
Một số người đang chuẩn bị đón Phật Di-Lặc ra đời, thật là tức cười, họ chính là người đang mò trăng đáy nước; quyển Nhị Khóa Hiệp Giải ghi: “Trong Hiền kiếp này, tức trong Trung kiếp Trụ này, hiện nay đang ở kiếp thứ 9, tới kiếp thứ 10 , khi mà giảm xuống đến thuở con người còn sống được 8 vạn tuổi là đức Phật Di Lặc ra đời”. Nguyên tắc tính số năm là thời kỳ đang giảm tuổi thọ (ở kiếp thứ 9 này) từ thời Phật Thích-Ca, con người sống trung bình 100 tuổi. Bây giờ, sau 2550 năm (tính từ khi Phật nhập Niết-Bàn), con người trung bình sống 75 tuổi thọ, cứ 100 năm giảm một tuổi. Như vậy số năm cần thiết để giảm xuống tới 10 tuổi thọ là: (75 – 10) x 100 = 6500 năm. Số năm cần thiết để tăng tuổi thọ con người (cũng ở kiếp thứ 9) từ 10 tuổi lên 84,000 là: (84,000 – 10) x 100 = 8,399,000 năm. Số năm cần thiết để giảm tuổi thọ từ 84,000 xuống còn 80,000 (ở kiếp thứ 10) là lúc Phật Di-Lặc ra đời là: (84,000 – 80,000) x 100 = 400,000 năm. Cộng ba con số năm trên, chúng ta có thể biết đức Phật Di-Lạc sẽ ra đời vào khoảng : 6500 + 8,399,000 + 400,000 = 8,805,500 (tám triệu tám trăm linh (lẻ) năm nghìn năm trăm) năm nữa.
LỜI BÀN: Khi nào tận thế?
Không khó khăn để biết ngày tận thế mà nhiều người đã qúa lo lắng, nhất là những người ngoại đạo, không biết họ nghe lời tiên đoán từ đâu mà họ cho rằng năm 2000 Dương lịch vừa rồi là tận thế; tội nghiệp! Họ đã lo lắng cùng cực, cầu nguyện ngày đêm, cho đến khi chẳng thấy gì xảy ra cả! Để biết rõ ngày tận thế, chúng ta thử làm con toán:
- Trước hết chúng ta đã có con số năm từ nay đến hết kiếp thứ 9 này là 6500 + 8,399,000 = 8,405,500 năm như trên đã tính.
- Từ kiếp thứ 10 đến hết kiếp thứ 20 của Trung kiếp Trụ này là 11 kiếp nữa thì bắt đầu vào thời kỳ Hoại của trái đất, chứ không phải hoại của mặt trời, mỗi kiếp là (84,000 – 10) x 100 x 2 = 16,798,000 năm; như vậy số năm trong 11 kiếp là 16,798,000 x 11 = 184,778,000. Do đó số năm để trái đất này sẽ chết (tạm thời, vì sẽ tái lập địa) là vào khoảng: 8,405,500 +184,778,000 = 193,183,500 (một trăm chín mươi ba triệu một trăm tám mươi tư nghìn năm trăm) năm, vì đại tai sẽ trình bày ở một mục sau.
LỜI BÀN: Các Cụ Tổ loài người có từ lúc nào?
Như vậy, thời gian từ lúc tái lập địa tới nay là bao lâu? Chúng ta có thể tính như sau: Trung kiếp Trụ có 20 kiếp, cho đến nay ta đang ở kiếp thứ 9 giảm tuổi, như vậy, trong 8 kiếp trước ta có: một kiếp x 8 = 16,798,000 x 8 = 134,384,000 năm, cộng với số năm từ đầu kiếp thứ 9 đến nay là (84,000 – 75) x 100 = 8,392,500 năm, thì ta có: 134,384,000 + 8,392,000 = 142,776,500 năm; đó là thời gian từ lúc tái lập địa đến giờ, và cũng là lúc mà các ông Tổ các bà Tổ loài người xuất hiện vậy.
Về khoa học thì sao?
1)- Trong quyển Những Nguồn Gốc (Origins), trang 236 ghi: “Hệ thống mặt trời và trái đất được thành lập khoảng 4.6 tỉ năm, sau 600 triệu năm thì ổn cố và xuất hiện đời sống trên trái đất”; lại có nhà khoa học nói đời sống khởi thủy ít ra cũng vài chục triệu năm rồi.
2)- Quyển Đạo Phật và Khoa Học,trang 270, ghi:
- Các nhà khoa học cho rằng vào thời kỳ xuất hiện đột nhiên (Cambrian Explosion) là thời kỳ mà các chủng loại khác nhau có mặt bất ngờ. Thời kỳ các lớp đá xuất hiện từ động vật hóa thạch cổ xưa cách nay 545 triệu năm, các nhà khảo cổ còn cho rằng đã có nhiều sinh vật khác nhau đã được sinh ra từ cả tỉ năm phần lớn sống trên đại dương và các vùng thấp, những sinh vật đầu tiên này có cơ thể mềm yếu không tồn tại lâu dài và không hóa đá được.
3)- Theo tài liệu cổ của nhân chủng học trong quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 325 ghi:
Về động vật: Sự sống cách đây 4 tỉ năm, loài có vú đàu tiên cách đây 50 triệu năm.
Lại có khoa học gia tìm thấy trong lớp địa tầng ở Phần-Lan có bằng chứng về sự sống cách nay 3 tỉ 850 triệu năm từ những hạt khoáng chất do vi sinh vật tạo nên.
Về thực vật: Trước kia các nhà khoa học nghiên cứu về hóa thạch cho rằng loài thực vật có trên trái đất vào khoảng 425 triệu năm.
Nhưng mới đây Tiến sĩ Blair Hedges trưởng nhóm nghiên cứu của trường đại học Pensylvania Hoa-Kỳ nói là loài nấm đất có từ 1.3 tỉ năm, loài rêu có từ 700 triệu năm; ông nói rằng thuở ấy trái đất còn bao phủ bởi băng hà, và sự có mặt của thực vật đã làm tăng lượng oxy và giảm lượng carbon dioxides trong khí quyển. Hiện tượng này kéo dài hơn 100 triệu năm, cho đến cách đây 530 triệu năm là thời kỳ băng hà chấm dứt; những loại động vật đầu tiên xuất hiện, được gọi là thời đột xuất Cambri Explosion; chính sự phong phú hiện diện của thực vật đã làm lượng oxy tăng lên đủ để động vật phát triển xương và có thân hình to lớn.
4)- Các nhà Nhân chủng học ngành huyết thống (đạo Phật và Khoa Học trang 262) cho rằng có hai chủng loại khác nhau:
- Chủng loại Lucy có 4 loại khác nhau cách đây từ 1 tới 4 triệu năm. Chủng loại Lucy đã tìm thấy bộ xương sọ ở Hadar, Phi châu.
- Chủng loại Homo cũng có 4 loại khác nhau cách đây từ 1 tới 3 triệu năm.
Năm 1980, Allan Wilson, Rebecca Cann, và Mark Stoneking đưa ra bằng chứng về Vi Năng tử DNA để nói rằng bà Tổ loài người xuất phát từ Phi-Châu cách đây 200,000 năm, rồi một số di cư tới Âu-Châu (Đạo Phật và Khoa Học, trang 265).
Nhưng giả thuyết này bị chống đối, nhà khoa học gia Ayala cho rằng người đàn bà Phi-Châu không thể coi là thủy tổ của tất cả nhân loại, mà di tử được truyền thừa từ nhiều tổ tiên chứ không phải một hay một số ít tổ tiên.
5)- Ông Robert L Drit thuộc đại học Yale Hoa-Kỳ tìm nguồn gốc tổ tiên bằng cách hoán chuyển Di-tử (Gene Mutual) trong những đoạn đặc biệt của dây nhiễm sắc (Chromosome Y), là những dây di truyền từ cha đến con. Bằng cách hoán chuyển với một tỉ lệ ngược thời gian nhiều thế hệ đến một điểm mà nhân loại có một ông tổ chung; ông tính ra là 270,000 năm (Đạo Phật và Khoa Học, trang 267).
Nhưng ông Mike Hammer nói rằng ông Dorit chỉ nghiên cứu 38 người trên thế giới chưa đủ, cần nghiên cứu nhiều người khác nữa trên thế giới.
6)- Christ Turner 2, Giáo sư Nhân chủng học đại học Arizona Hoa-Kỳ nghiên cứu 250,000 chiếc răng cho rằng người tiền sử, nói rằng nếu con người hiện đại chỉ xuất hiện ở một nơi, thì nơi đó phải là vùng Đông Nam Á châu, vì những yếu tố ông thâu thập được chứng minh như thế (Đạo Phật và Khoa Học trang 269).
Nhưng Chris Stringer, trưởng toán nghiên cứu nguồn gốc loài người tại Viện Bảo Tàng Lịch-sử thiên nhiên ở Luân-Đôn không đồng ý và cho rằng yếu tố thâu thập về răng chỉ chứng tỏ rằng Á-Châu là nơi di cư tản mát của loài người sau khi xuất phát từ Phi-Châu.
LỜI BÀN VÊ KHOA HỌC:
Xem vậy, lâu lâu các nhà khoa học lại khám phá ra một điều mới lạ có liên quan đến nguồn gốc loài người, loài vật và thực vật; nhưng xem ra chưa phải là kết quả cuối cùng, thậm chí điều khám phá ra sau lại trái với điều khám phá ra trước, nhất là các con số đưa ra, làm cho người đọc lẫn lộn, bối rối, vì chưa rõ ràng. Có người bảo các nhà khoa học như những người mù sờ voi chỉ trúng một phần thôi chứ không trúng hết, nói vậy cũng là qúa khe khắt, dù sao, họ cũng đang chứng minh bằng khoa học thực nghiệm được một phần nào mà đức Phật đã dạy trước kia như có những sinh vật nhỏ bé trong nước, vũ trụ vô biên, thế giới vô số nhiều hơn cát sông Hằng v.v….,.
ĐỨC PHẬT GIẢNG VỀ NGUỒN GỐC CON NGƯỜI
(chính là nội dung của kinh 27. Kinh Khởi thế nhân bổn(Agganna sutta) Trường Bộ Kinh)
Như vầy tôi nghe:
1. Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi (Xá-vệ), Pubbàràma (Thành Tín Viên lâm), ở lầu của Migà ramàtu (Lộc Mẫu Giảng đường). Lúc bấy giờ, Vàsettha và Bhàradvàjà sống giữa các vị Tỷ kheo và muốn trở thành Tỷ kheo. Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh khởi dậy, bước xuống khỏi lầu, đi qua lại giữa trời, dưới bóng ngôi lầu.
2. Vàsettha thấy Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh khởi dậy, bước xuống khỏi ngôi lầu, đi qua lại giữa trời, dưới bóng ngôi lầu. Thấy vậy Vàsettha nói với Bhàradvàja:
– Này bạn Bhàradvàja, Thế Tôn vào buổi chiều, từ thiền tịnh khởi dậy, bước xuống khỏi lầu, đi qua lại giữa trời, dưới bóng ngôi lầu. Này bạn Bhàradvàja, chúng ta hãy đến yết kiến Thế Tôn. Rất có thể chúng ta được nghe một thời pháp từ Thế Tôn.
– Thưa vâng, Hiền giả!
Bhàradvàja vâng theo lời Vàsettha. Rồi cả Vàsettha và Bhàradvàja cùng đến gần Thế Tôn, khi đến xong đảnh lễ Ngài và đi theo sau lưng Thế Tôn, khi Ngài đang đi qua đi lại.
3. Rồi Thế Tôn nói với Vàsettha:
– Này Vàsettha, Ngươi sanh trưởng là Bà-la-môn và thuộc gia tộc Bà-la-môn, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình từ gia tộc Bà-la-môn. Này Vàsettha, người Bà-la-môn có chỉ trích Ngươi, phỉ báng Ngươi chăng?
– Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn thật có chỉ trích chúng con, phỉ báng chúng con, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện.
– Này Vàsettha, các vị Bà-la-môn dùng lời lẽ như thế nào để chỉ trích các Ngươi, phỉ báng các Ngươi, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện?
– Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn đã nói như sau: “Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt. Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen. Chỉ có Bà-la-môn là thuần túy, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính tông của Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của Phạm thiên. Các Ngươi đã từ bỏ giai cấp tối thượng, cúi mình vào giai cấp hạ tiện – giai cấp các Sa môn trọc đầu, đê tiện, đen đủi, giòng giống thuộc bàn chân. Làm vậy thật là không tốt, làm vậy thật là không hợp, khi các Ngươi từ bỏ giai cấp tối thượng, cúi mình vào giai cấp hạ tiệt, giai cấp Bà-la-môn trọc đầu, đê tiện, đen đủi, giòng giống thuộc bàn chân”. Bạch Thế Tôn, như vậy các vị Bà-la-môn chỉ trích chúng con, phỉ báng chúng con, với những lời phỉ báng thật chí tình, phỉ báng thật toàn diện, chớ không phải không toàn diện.
4. – Này Vàsettha, các người Bà-la-môn thật đã quên quá khứ khi họ nói: “Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ tiện. Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen. Chỉ có Bà-la-môn là thuần túy, các giai cáp phi Bà-la-môn không phải như vậy. Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính tông của Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của Phạm thiên”. Này Vàsettha, các nữ Bà-la-môn, vợ của các Bà-la-môn được thấy là có kinh nguyệt, có mang thai, có sanh con, có cho con bú. Và những Bà-la-môn ấy chính do thai sanh, lại nói rằng: “Bà-la-môn là giai cấp tối thượng… là con cháu thừa tự của Phạm thiên”.
5. Này Vàsettha, có bốn giai cấp: Sát đế lỵ, Bà-la-môn, Phệ xá và Sudda (Thủ-đà-la). Này Vàsettha, có người Sát đế lỵ sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tâm tham, có tâm sân, có tà kiến. Này Vàsettha, những pháp ấy là bất thiện và được gọi là bất thiện; những pháp ấy là có tội và được gọi là có tội; những pháp ấy không nên hành trì và được gọi là các pháp không nên hành trì; những pháp ấy không xứng Thánh pháp và được gọi là không xứng Thánh pháp; những pháp ấy là hắc pháp và hắc báo; những pháp ấy bị người có trí quở trách. Ở đây, những pháp ấy được tìm thấy trong một số người Sát đế lỵ. Này Vàsettha có người Bà-la-môn… Này Vàsettha có người Phệ xá… Này Vàsettha, có người Thủ đà la sát sanh… có tà kiến. Này Vàsettha, những pháp ấy là bất thiện và được gọi là bất thiện… là hắc pháp và hắc báo; những pháp ấy bị người có trí quở trách. Ở đây, những pháp ấy được tìm thấy trong một số người Thủ đà la.
6. Này Vàsettha, có người Sát đế lỵ không sát sanh, không lấy của không cho, không có tà hạnh, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói ác khẩu, không nói lời phù phiếm, không có tâm tham, không có tâm sân, có chánh kiến. Này Vàsettha, những pháp ấy là thiện và được gọi là thiện; những pháp ấy không có tội và được gọi là không có tội; những pháp ấy nên hành trì và được gọi là các pháp nên hành trì; những pháp ấy xứng Thánh pháp và được gọi là xứng Thánh pháp; những pháp ấy là bạch pháp và có bạch quả; những pháp ấy được người có trí tán thán. Ở đây, những pháp ấy được tìm thấy trong một số người Sát đế lỵ. Này Vàsettha, có người Bà-la-môn… Này Vàsettha, có người Phệ xá… Này Vàsettha, có người Thủ đà la không sát sanh… không có tham tâm, không có sân tâm, có chánh kiến. Này Vàsettha, những pháp ấy là thiện và được gọi là thiện; những pháp ấy không có tội và được gọi là không có tội; những pháp ấy nên hành trì và được gọi là các pháp nên hành trì; những pháp ấy xứng Thánh pháp và được gọi là xứng Thánh pháp; những pháp ấy là bạch pháp và có bạch quả; những pháp được người có trí tán thán. Ở đây, những pháp ấy được tìm thấy trong một số người Thủ đà la.
7. Này Vàsettha, vì rằng cả hai pháp hắc và bạch được chỉ trích và được tán thán bởi những người có trí, đều có mặt lẫn lộn trong bốn giai cấp này, nên ở đây, những Bà-la-môn nào nói rằng: “Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, các giai cấp khác là hạ liệt; chỉ có giai cấp Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen; chỉ có Bà-la-môn là thuần túy, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy; chỉ có Bà-la-môn là con chính tông của Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự của Phạm thiên.” Các vị có trí không thể chấp nhận như vậy. Tại sao vậy? Này Vàsettha, vì rằng nếu có ai trong bốn giai cấp là một vị Tỷ kheo, một vị A la hán, các lậu hoặc đã được diệt tận, phạm hạnh đã thành, đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt mục đích tối thượng, hữu kiết sử đã diệt, nhờ chánh trí đã được giải thoát, vị ấy sẽ được xem là tối thượng so sánh với bốn giai cấp, vì xứng với Pháp, không phải không xứng với Pháp. Này Vàsettha, Phàp là tối thượng giữa các loài hữu tình, trong đời này và cả đời sau.
8. Này Vàsettha, đây là một chứng minh điển hình để biết vì sao Pháp là tối thượng giữa các loài hữu tình, trong đời này và cả đời sau.
Này Vàsettha, vua Pasenadi (Ba tư nặc) nước Kosala biết rằng: “Sa môn Gotama xuất gia từ giòng họ liên hệ Sàkyà tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với vua Pasenadi nước Kosala rất lễ độ phải phép. Cũng vậy vua Pasenadi nước Kosala tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với Như Lai rất lễ độ, phải phép, vì vua nghĩ: “Có phải Sa môn Gotama là thiện sanh? Còn ta không phải thiện sanh; Sa môn Gotama có hùng lực, ta không có hùng lực; Sa môn Gotama có dáng mặt đẹp đẽ, còn ta có dáng mặt thô xấu; Sa môn Gotama là vị có nhiều thế lực, còn ta ít có thế lực?” Vì rằng vua Pasenadi nước Kosala tôn trọng Pháp, cung kính Pháp, đảnh lễ Pháp, cúng dường Pháp, kính lễ Pháp nên vua tôn trọng, đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay và đối xử với Như Lai rất lễ độ, phải phép. Này Vàsettha, với chứng minh điển hình này, cần hiểu như thế nào Pháp là tối thượng giữa các loài hữu tình, trong đời này và cả đời sau.
9. Này Vàsettha, các Ngươi, sanh sai biệt, danh sai biệt, tánh sai biệt, gia hệ sai biệt, đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu có ai hỏi: “Các vị là ai?”, các Ngươi cần trả lời: “Chúng tôi là Sa môn, dưới sự lãnh đạo của Thích ca tử”. Này Vàsettha, ai có lòng tin Như Lai, lòng tin ấy được an trí, có căn đế, an trú và chắc chắn, một lòng tin không bị lôi kéo bởi Sa môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một vị nào ở trên đời, vị ấy có thể nói: “Ta là con chính tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, do Pháp sanh, do Pháp tạo ra, là con cháu thừa tự của Pháp.” Vì sao vậy? Này Vàsettha, vì là những chữ đồng nghĩa với Như Lai là Pháp thân, là Phạm thân, là Pháp thể, là Phạm thể.
10. Này Vàsettha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển hoại. Trong khi thế giới chuyển hoại, các loại hữu tình phần lớn sanh qua cõi Abhassara (Quang Âm thiên). Ở tại đây, những loại chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài. Này Vàsettha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này chuyển thành. Trong khi thế giới này chuyển thành, một số lớn chúng sanh từ Quang Âm thiên thác sanh qua tại đây. Những chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy một thời gia khá dài.
11. Này Vàsettha, lúc bấy giờ, vạn vật trở thành một thế giới toàn nước đen sẫm, một màu đen khiến mắt phải mù. Mặt trăng, mặt trời không hiện ra; sao và chòm sao không hiện ra; không có ngày đêm; không có tháng và nửa tháng; không có năm và thời tiết; không có đàn bà đàn ông. Các loài hữu tình chỉ được xem là loài hữu tình mà thôi. Này Vàsettha, đối với các loài hữu tình ấy, sau một thời gian rất lâu, vị đất tan ra trong nước. Như bọt nổi lên trên mặt cháo sữa nóng đang nguội dần, cũng vậy đất hiện ra. Ðất này có màu sắc, có hương và có vị. Màu sắc của đất giống như đề hồ hay thuần túy như tô, vị của đất như mật ong thuần tịnh.
12. Này Vàsettha, có loài hữu tình, có tánh tham, nói: “Kìa xem, vật này là gì vậy?”, lấy ngón tay nếm vị của đất. Khi lấy ngón tay nếm vị của đất, vị ấy thấm vào thân và tham ái khởi lên. Này Vàsettha, các loài hữu tình khác, theo gương hữu tình kia, lấy ngón tay nếm vị của đất. Khi lấy ngón tay nếm vị của đất, vị ấy thấm vào thân và tham ái khởi lên. Rồi các hữu tình kia bắt đầu thưởng thức vị của đất, bằng cách bẻ từng cục đất với bàn tay nhỏ của họ, thời ánh sáng của họ biến mất. Khi ánh sáng của họ biến mất, mặt trăng mặt trời hiện ra. Khi mặt trăng, mặt trời hiện ra, thì sao và chòm sao hiện ra. Khi sao và chòm sao hiện ra, ngày và đêm hiện ra, khi ngày và đêm hiện ra, thì nửa tháng và tháng hiện ra. Khi nửa tháng và tháng hiện ra, thời tiết và năm hiện ra. Như vậy, này Vàsettha, thế giới này bắt đầu thành trở lại.
13. Này Vàsettha, những hữu tình ấy, thưởng thức vị của đất, lấy đất làm chất ăn, lấy đất làm món ăn trong một thời gian khá lâu. Này Vàsettha, vì các hữu tình ấy thưởng thức vị của đất, lấy đất làm chất ăn, lấy đất làm món ăn trong một thời gian khá lâu, thân của họ trở thành cứng rắn, và sắc đẹp của họ trở thành sai biệt. Có hạng hữu tình có sắc đẹp, có hạng hữu tình không có sắc đẹp. Ở đây các hữu tình có sắc đẹp khinh các hữu tình không có sắc đẹp: “Chúng ta có sắc đẹp hơn họ, họ không có sắc đẹp bằng chúng ta.” Do họ kiêu mạn và kiêu ngạo về sắc đẹp của họ, vị của đất biến mất. Khi vị của đất biến mất, họ hội họp lại và kêu than: “Ôi vị ngon! Ôi vị ngon!”, như ngày nay, khi loài Người có được vị ngon liền nói: “Ôi vị ngon! Ôi vị ngon!” Như vậy họ theo văn tự truyền thống của thời xưa mà không biết ý nghĩa của nó.
14. Này Vàsettha, khi vị đất đã biến mất với các hữu tình ấy, thời một loại nấm đất hiện ra. Như hình con rắn, chúng hiện ra như vậy. Loại nấm ấy có sắc, có hương, có vị. Mầu sắc của loại nấm này giống như đề hồ hay thuần túy như tô. Vị của đất như mật ong thuần tịnh. Này Vàsettha, những hữu tình ấy bắt đầu ăn thứ nấm đất. Họ thưởng thức nấm đất, lấy nấm đất làm chất ăn, lấy nấm đất làm món ăn trong một thời gian khá lâu. Này Vàsettha, vì các chúng sanh ấy thưởng thức nấm đất, lấy nấm đất làm chất ăn, lấy nấm đất làm món ăn trong một thời gian khá lâu, nên thân của họ trở thành cứng rắn hơn và sắc đẹp của chúng lại càng sai biệt. Có hạng hữu tình có sắc đẹp, có hạng hữu tình không có sắc đẹp. Ở đây các hữu tình có sắc đẹp khinh các hữu tình không có sắc đẹp: “Chúng ta có sắc đẹp hơn họ, họ không có sắc đẹp bằng chúng ta”. Do họ kiêu mạn và kiêu ngạo về sắc đẹp của họ, nấm đất biến mất. Khi nấm đất biến mất cỏ và cây leo hiện ra. Như loại cây tre, chúng hiện ra như vậy. Loại cây leo này có sắc, có hương, có vị. Mầu sắc của loại cây này giống như đề hồ hay thuần túy như tô. Vị của loại cây leo này như mật ong thuần tịnh.
15. Này Vàsettha, các hữu tình này bắt đầu thưởng thức loại cây leo này. Chúng bắt đầu thưởng thức loại cây leo, lấy cây leo làm chất ăn, lấy cây leo làm món ăn trong một thời gian khá lâu. Này Vàsettha, vì những hữu tình này bắt đàu thưởng thức loại cây leo, lấy cây leo làm chất ăn, lấy cây leo làm món ăn trong một thời gian khá lâu nên thân của họ trở thành cứng rắn hơn và sắp đẹp của họ lại càng sai biệt. Có hạng hữu tình có sắc đẹp, có hạng hữu tình không có sắc đẹp. Ở đây các hữu tình có sắc đẹp khinh các hữu tình không có sắc đẹp: “Chúng ta có sắc đẹp hơn họ, họ không có sắc đẹp bằng chúng ta.” Do họ kiêu mạn và kiêu ngạo về sắc đẹp của họ, cỏ và cây leo biến mất. Khi cỏ và cây leo biến mất, họ hội họp lại và kêu than: “Ôi, cái này thuộc của chúng ta! Ôi hại thay cho chúng ta, nay cỏ và cây leo đã biến đi!”; như ngày nay khi loài Người được hỏi cái gì làm cho đau khổ, bèn trả lời: “Ôi, cái này thuộc của chúng ta! Ôi hại thay cho chúng ta!” Như vậy, họ theo văn tự truyền thống của thời xưa mà không biết ý nghĩa của nó.
16. Này Vàsettha, khi các loại cỏ, cây leo biến mất, thời lúa xuất hiện tại các khoảng trống, không có cám, không có vỏ, có mùi thơm và bột trơn nhẵn. Chỗ nào vào buổi chiều họ mang đi để ăn chiều, thời tại chỗ ấy, vào buổi sáng, lúa lại mọc lớn và chín. Chỗ nào vào buổi sáng, họ mang đi để ăn sáng, thời tại chỗ ấy, vào buổi chiều lúa lại mọc lớn và chín, không có gián đoạn. Này Vàsettha, những hữu tình ấy thưởng thức lúa mọc tại các khoảng trống, lấy lúa làm chất ăn, lấy lúa làm món ăn trong một thời gian khá lâu. Này Vàsettha, vì các chúng sanh ấy thưởng thức lúa mọc tại khoảng trống, lấy lúa làm chất ăn, lấy lúa làm món ăn trong một thời gian khá lâu, thân hình của họ trở thành cứng rắn hơn và sắp đẹp của họ lại càng sai biệt. Về phái nữ, nữ tánh xuất hiện; về phái nam, nam tánh xuất hiện. Phái nữ nhìn phái nam hết sức kỹ lưỡng, phái nam nhìn phái nữ hết sức kỹ lưỡng. Vì họ nhìn nhau kỹ lưỡng như vậy nên tình dục khởi lên, ái luyến đối với thân thể bắt đầu. Do sự ái luyến, họ làm các hạnh dâm. Này Vàsettha, lúc bấy giờ những chúng sanh ấy thấy làm các hạnh dâm như vậy, người thì quăng bùn, người thì quăng tro, người thì quăng phân bò và nói: “Hãy chết đi, đồ ô uế! Hãy chết đi, đồ ô uế! Sao một loài hữu tình lại đối xử với một loài hữu tình khác như vậy?”; như ngày nay, tại một số quốc độ, khi một cô dâu được rước đi, có người quăng bùn, có người quăng tro, có người quăng phân bò. Như vậy, chúng theo văn tự truyền thống xưa mà không biết ý nghĩa của nó.
17. Này Vàsettha, lúc bấy giờ việc làm được xem là phi pháp nay được xem là đúng pháp. Này Vàsettha, lúc bấy giờ các loài hữu tình ấy hành dâm không được phép vào làng hay xã ấp một tháng hay cả hai tháng. Vì những hữu tình ấy lúc bấy giờ chỉ trích mau chóng, vì hành động phi pháp, họ bắt đầu làm lầu, làm nhà để che dấu những hành động phi pháp của họ. Này Vàsettha, có loài hữu tình bản tánh biếng nhác tự nghĩ: “Sao ta lại tự làm ta mỏi mệt bằng cách đi tìm lúa buổi chiều cho buổi ăn chiều, buổi sáng cho buổi ăn sáng? Sao ta lại không tìm lúa một lần cho cả buổi ăn chiều và buổi ăn sáng?” Này Vàsettha, loài hữu tình ấy tìm lúa một lần cho cả buổi ăn chiều, cả buổi ăn sáng. Một hữu tình khác đến vị hữu tình này và nói:
– Này Bạn, chúng ta hãy đi tìm lúa!
– Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần, cả cho buổi chiều và buổi sáng.
Này Vàsettha, vị này noi theo vị hữu tình kia, đi tìm lúa một lần đủ cho cả hai ngày.
– Này Bạn, như vậy là tốt.
Này Vàsettha, rồi một hữu tình khác đến vị hữu tình ấy và nói:
– Này Bạn chúng ta hãy đi tìm lúa.
– Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần đủ cho cả hai ngày rồi.
Này Vàsettha, vị hữu tình này noi theo gương vị hữu tình kia, liền đi tìm lúa một lần đủ cho bốn ngày.
– Này Bạn, như vậy là tốt.
Này Vàsettha, một vị hữu tình khác lại đến vị hữu tình này và nói:
– Này Bạn, chúng ta hãy đi tìm lúa!
– Này Bạn, tôi đã tìm lúa một lần đủ cho cả bốn ngày!
Này Vàsettha, vị hữu tình này noi theo gương vị hữu tình kia, liền đi tìm lúa một lần đủ cho tám ngày.
– Này Bạn, như vậy là tốt.
Này Vàsettha, những vị hữu tình kia, bắt đầu tích trữ lúa để ăn, và cám bắt đầu bao bọc hột gạo trơn nhẵn và vỏ lúa bao bọc hột lúa; và các cây lúa bị cắt không lớn lên được; và như vậy có sự gián đoạn; và cây lúa mọc lên từng cụm, từng chùm.
18. Này Vàsettha, các loài hữu tình ấy hội họp lại và than phiền:
– Này các Bạn, các ác pháp đã hiện ra giữa các loài hữu tình. Chúng ta trước kia do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy trong một thời gian khá dài. Ðối với chúng ta, sau một thời gian khá dài, vị của đất hiện ra. Vị đất này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu bẻ đất từng cục bằng tay để ăn vị đất. Vì bắt đầu bẻ đất bằng tay từng cục để ăn, nên hào quang biến mất. Vì hào quang biến mất nên mặt trời, mặt trăng hiện ra. Vì mặt trăng, mặt trời hiện ra nên các sao và chùm sao hiện ra. Vì các sao và chùm sao hiện ra, nên đêm, ngày hiện ra. Vì đêm, ngày hiện ra, nên nửa tháng và tháng hiện ra. Vì nửa tháng và tháng hiện ra, nên thời tiết và năm hiện ra. Chúng ta thưởng thức vị đất, lấy vị đất làm chất ăn, lấy vị đất làm món ăn trong một thời gian khá dài. Khi ác bất thiện pháp khởi lên giữa chúng ta, vị đất biến mất. Vì vị đất biến mất, nên nấm đất hiện ra. Nấm đất này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu thưởng thức nấm đất ấy, lấy nấm đất làm chất ăn, lấy nấm đất làm món ăn trong một thời gian khá dài. Vì các ác, bất thiện pháp này khởi lên giữa chúng ta nên nấm đất biến mất. Vì nấm đất biến mất, nên cỏ và cây leo hiện ra. Cỏ và cây leo này có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu thưởng thức cỏ và cây leo ấy, lấy cỏ và cây leo làm chất ăn, lấy cỏ và cây leo làm món ăn trong một thời gian khá dài. Vì các ác, bất thiện pháp này xảy ra giữa chúng ta nên cỏ và cây leo biến mất. Vì cỏ và cây leo biến mất, nên lúa mọc tại khoảng trống hiện ra, không có cám, không có vỏ, thuần tịnh, có mùi thơm và hột trơn nhẵn. Chỗ nào vào buổi chiều, chúng ta mang đi để ăn chiều, thời tại chỗ ấy vào buổi sáng lúa lại mọc lớn và chín. Chỗ nào vào buổi sáng, chúng ta mang đi để ăn sáng, thời tại chỗ ấy vào buổi chiều, lúa lại mọc lớn và chín, không có gián đoạn. Chúng ta thưởng thức lúa mọc tại khoảng trống, lấy lúa làm chất ăn, lấy lúa làm món ăn trong một thời gian khá dài. Vì các ác, bất thiện pháp ấy khởi lên giữa chúng ta, cám bắt đầu bọc hột lúa trơn nhẵn và vỏ lúa bao bọc hột lúa trơn nhẵn; và các cây lúc bị cắt không lớn lên được; và như vậy có sự gián đoạn. Và các cây lúa mọc lên từng cụm, từng chùm. Vậy nay, chúng ta hãy chia lúa và đắp đê làm bờ ruộng.
Này Vàsettha, các loại hữu tình ấy phân chia lúa và đắp đê làm bờ ruộng.
19. Này Vàsettha, có vị hữu tình, bản tánh biếng nhác, gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần của người khác và thưởng thức phần ấy. Người ta bắt người ấy và nói:
– Này Ngươi, Ngươi đã làm ác pháp, gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy. Nhà Ngươi chớ có làm như vậy nữa.
– Thưa Bạn, vâng!
Này Vàsettha, người này vâng theo lời nói của những người ấy. Này Vàsettha, một lần thứ hai… Này Vàsettha một lần thứ ba, người này gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy. Người ta bắt người này và nói:
– Này Ngươi, Ngươi đã làm điều ác, vì Ngươi gìn giữ phần của mình, đánh cắp phần không cho của người khác và thưởng thức phần ấy… Ngươi chớ có làm như vậy nữa.
Có người đập anh ta bằng tay, có người đập anh ta bằng đá, có người đập anh ta bằng gậy. Này Vàsettha, bắt đầu như vậy, lấy của không cho xuất hiện, quở trách xuất hiện, nói láo xuất hiện, hình phạt đánh đập xuất hiện.
20. Này Vàsettha, những loài hữu tình ấy hội họp lại và than khóc:
– Này Tôn giả, ác pháp đã khởi lên giữa các loài hữu tình, trong hình thức lấy của không cho xuất hiện, quở trách xuất hiện, nói láo xuất hiện, hình phạt xuất hiện. Chúng ta hãy đề cử một người. Người ấy sẽ tức giận khi đáng phải tức giận, khiển trách khi đáng phải khiển trách, hay tẩn xuất khi đáng phải tẩn xuất. Chúng tôi sẽ dành cho Người một phần lúa của chúng tôi.
– Xin vâng, các Tôn giả!
Này Vàsettha, vị hữu tình này vâng theo các vị hữu tình kia, tức giận khi đáng tức giận, khiển trách khi đáng khiển trách, tẩn xuất khi đáng tẩn xuất. Và các vị hữu tình kia chia cho vị này một phần lúa.
21. Này Vàsettha, được lựa chọn bởi đại chúng, tức là Mahà-sammato. Danh từ Mahà-sammato là danh từ đầu tiên được khởi lên. Này Vàsettha, “Vị chủ của ruộng vườn” tức là Khattiyà, là danh từ thứ hai được khởi lên” Làm cho các người khác hoan hỷ bởi Pháp”, tức là Ràja (vị vua). Ràja là danh từ thứ ba được khởi lên. Này Vàsettha, như vậy là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của Khattiya theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của chúng ta ở giữa những loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác, một cách đúng pháp tắc (dhamma), không phải phi pháp. Này Vàsettha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
22. Này Vàsettha, một số các vị hữu tình suy nghĩ:
– Này các Tôn giả, các ác, bất thiện pháp đã hiện ra giữa các loại hữu tình, như lấy của không cho, khiển trách, nói láo, hình phạt, tẩn xuất. Chúng ta hãy loại bỏ các ác, bất thiện pháp.
Các vị ấy loại bỏ các ác, bất thiện pháp, tức là Bràhmanà (Bà-la-môn), và chữ Bràhmanà là danh từ đầu tiên được khởi lên. Những vị nầy lập lên những chòi bằng lá tại các khu rừng và tu thiền trong những nhà chòi bằng lá ấy. Ðối với họ, than đỏ được dập tắt, khói được tiêu tan, cối và chầy rơi ngả nghiêng, buổi chiều lo buổi ăn chiều, buổi sáng lo buổi ăn sáng; họ đi vào làng, vào thị xã, vào kinh đô để khất thực. Khi họ xin được đồ ăn rồi, họ lại vào các chòi lá trong các khu rừng để tu thiền. Các người khác thấy vậy, nói như sau:
– Này các Tôn giả, những loài hữu tình này lập lên những chòi bằng lá tại các khu rừng và tu thiền trong những chòi bằng lá ấy.
Ðối với họ, than đỏ được dập tắt, khói được tiêu tan, cối và chầy rơi ngả nghiêng, buổi chiều lo ăn buổi ăn chiều, buổi sáng lo buổi ăn sáng; họ đi vào làng, vào thị xã, vào kinh đô để khất thực. Khi xin được đồ ăn rồi, họ lại vào các chòi lá trong khu rừng để tu thiền. Này Vàsettha, họ “Jhàyanti”, tu thiền, tức là họ suy tư Jhàyakà. Jhàyakà là danh từ thứ hai được khởi lên.
23. Này Vàsettha, một số loài hữu tình này, không thể tu thiền trong các chòi bằng lá tại khu rừng, liền đi xuống xung quanh làng, xuống xung quanh thị xã để làm sách. Các người khác thấy vậy bèn nói:
“Này các Tôn giả, những loài hữu tình này, không thể tu thiền trong các chòi bằng lá tại khu rừng, đã đi xuống xung quanh làng, xuống xung quanh thị xã để làm sách. Nay những vị này không tu thiền.
Này Vàsettha, “Na dàn ime Jhàyanti” tức là ajjhàyaka, và ajjàyakà (các vị lập lại các tập sách Vedà), cũng có nghĩa là những người không tu thiền, là chữ thứ ba được khởi lên. Này Vàsettha, thời ấy họ thuộc hạ cấp. Nay họ xem là cao thượng nhất. Như vậy, này Vàsettha là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của các Bà-la-môn, theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của họ là ở giữa những loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác một cách đúng phép tắc, không phải phi pháp. Này Vàsettha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
24. Này Vàsettha, một số loài hữu tình này, theo pháp dâm dục, thiết lập các nghề nghiệp sai khác (Vissuta). Này Vàsettha, những ai theo pháp dâm dục, thiết lập ra các nghề nghiệp sai khác, như vậy gọi là Vessà. Danh từ Vessà được khởi lên. Như vậy, này Vàsettha là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của các Vessà, theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của họ là ở giữa các loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác, một cách đúng phép tắc, không phải phi pháp. Này Vàsettha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
25. Này Vàsettha, một số loài hữu tình còn lại lựa chọn săn bắn. Những ai sống săn bắn và theo các nghề hèn nhỏ, này Vàsettha, được gọi là Suddà. Và danh từ Suddà được khởi lên. Như vậy, này Vàsettha, là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của các Suddà, theo danh từ truyền thống cổ xưa. Nguồn gốc của chúng là ở giữa các loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác, một cách đúng phép tắc, không phải phi pháp. Này Vàsettha như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
26. Này Vàsettha, một thời có vị Khattiya (Sát đế lỵ) tự trách pháp của mình, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Tôi sẽ sống làm người Sa môn”. Vị Bà-la-môn, tự trách pháp của mình, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Tôi sẽ sống làm người Sa môn”. Vị Vessà, tự trách pháp của mình, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Tôi sẽ sống làm người Sa môn”. Vị Suddà, tự trách pháp của mình, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình: “Tôi sẽ sống làm người Sa môn”. Này Vàsettha, giai cấp Samana (Sa môn) được khởi lên từ bốn giai cấp ấy. Nguồn gốc của Sa môn là ở giữa các loài hữu tình ấy, không ở ngoài loại nào khác, một cách đúng phép tắc, không phải phi pháp. Này Vàsettha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cả cho đời sau.
27. Này Vàsettha,vị Khattiya, làm tà hạnh về thân, làm tà hạnh về miệng, làm tà hạnh về ý, có tà kiến. Do tà kiến, tà nghiệp làm nhơn duyên, sau khi thân hoại mạng chung sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này Vàsettha, vị Bà-la-môn … Này Vàsettha,vị Vessà … Này Vàsettha, vị Suddà làm tà hạnh về thân, làm tà hạnh về miệng, làm tà hạnh về ý, có tà kiến. Do tà kiến, tà nghiệp làm nhơn duyên, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
28. Này Vàsettha, vị Khattiya làm chánh hạnh về thân, chánh hạnh về miệng, chánh hạnh về ý, có chánh kiến. Do chánh kiến, chánh nghiệp làm nhơn duyên, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới. Này Vàsettha, vị Bà-la-môn… Này Vàsettha, vị Sessà… Này Vàsettha, vị Suddà làm chánh hạnh về thân, chánh hạnh về miệng, chánh hạnh về ý, có chánh kiến. Do chánh kiến, chánh nghiệp làm nhơn duyên, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới.
29. Này Vàsettha, vị Khattiya, làm hai hạnh về thân, hai hạnh về miệng, hai hạnh về ý, có chánh kiến tà kiến lẫn lộn. Do chánh kiến tà kiến, chánh hạnh tà hạnh lẫn lộn làm nhân duyên, sau khi thân hoại mạng chung, thọ lãnh lạc và khổ thọ. Này Vàsettha, vị Bà-la-môn… Này Vàsettha, vị Vessà… Này Vàsettha, vị Suddà, làm hai hạnh về thân, hai hạnh về miệng, hai hạnh về ý, có chánh kiến, có tà kiến lẫn lộn. Do chánh kiến tà kiến, chánh hạnh tà hạnh lẫn lộn làm nhơn duyên, sau khi thân hoại mạng chung, thọ lãnh lạc và khổ thọ.
30. Này Vàsettha, vị Khattiya, chế ngự về thân, chế ngự về miệng, chế ngự về ý, sau khi tu tập Bảy pháp Giác chi đã diệt trừ hoàn toàn (các ác pháp) ngay trong đời hiện tại. Này Vàsettha, vị Bà-la-môn… vị Vessà… Này Vàsettha vị Suddà, chế ngự về thân, chế ngự về miệng, chế ngự về ý, sau khi tu tập Bảy pháp Giác chi đã diệt trừ hoàn toàn (các ác pháp) ngay trong đời hiện tại.
31. Này Vàsettha, trong bốn giai cấp này, vị Tỷ kheo, là bậc A la hán, lậu hoặc đã diệt tận, việc phải làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục tiêu đã đạt tới, hữu kiết sử đã trừ diệt, chánh trí giải thoát. Vị ấy được gọi là tối thượng trong tất cả giai cấp, đúng với Chánh pháp, không phải phi pháp. Này Vàsettha, như vậy Pháp là tối thượng ở đời, trong hiện tại và cho cả đời sau.
32. Này Vàsettha, bài kệ sau đây được Phạm thiên Sanamkumàra (Thường Ðồng hình Phạm thiên) tuyên thuyết:Chúng sanh tin giai cấp,
Sát đế lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
Này Vàsettha, bài kệ này được Phạm thiên Sanamkumàra, khéo hát chớ không phải vụng hát, khéo nói chớ không phải vụng nói, đầy đủ ý nghĩa chớ không phải không đầy đủ, được Ta chấp nhận. Này Vàsettha, Ta cũng nói như sau:Chúng sanh tin giai cấp,
Sát đế lỵ tối thắng.
Ai đủ cả trí, đức,
Tối thắng giữa Nhân, Thiên.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Vàsettha và Bhàradvàja hoan hỷ tín thọ lời giảng Thế Tôn.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Thông tin bài viết rất hay, ngoài những thông tin trên bạn có thể xem thêm qua những thông tin của tôi dưới đây. hi vọng nó có ích với bạn:
Trả lờiXóakhắc dấu tròn công ty ở đâu
khắc dấu liền mực lấy ngay
khắc dấu tên giá rẻ hà nội